Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
28 Καὶ προσελθὼν εἷς τῶν
γραμματέων ἀκούσας αὐτῶν συζητούντων, ἰδὼν ὅτι καλῶς ἀπεκρίθη
αὐτοῖς ἐπηρώτησεν αὐτόν· ποία ἐστὶν ἐντολὴ πρώτη πάντων; 29 ἀπεκρίθη ὁ Ἰησοῦς ὅτι πρώτη ἐστίν· ἄκουε, Ἰσραήλ, κύριος ὁ θεὸς ἡμῶν κύριος εἷς ἐστιν, 30 καὶ ἀγαπήσεις
κύριον τὸν θεόν σου ἐξ ὅλης τῆς καρδίας σου καὶ
ἐξ ὅλης τῆς ψυχῆς σου καὶ ἐξ ὅλης τῆς διανοίας σου καὶ ἐξ ὅλης τῆς ἰσχύος σου. 31 δευτέρα αὕτη· ἀγαπήσεις τὸν
πλησίον σου ὡς σεαυτόν. μείζων τούτων ἄλλη ἐντολὴ οὐκ ἔστιν. 32 Καὶ εἶπεν αὐτῷ ὁ γραμματεύς· καλῶς,
διδάσκαλε, ἐπ᾽ ἀληθείας εἶπες ὅτι εἷς ἐστιν καὶ
οὐκ ἔστιν ἄλλος πλὴν αὐτοῦ· 33 καὶ τὸ ἀγαπᾶν
αὐτὸν ἐξ ὅλης τῆς καρδίας καὶ ἐξ ὅλης τῆς συνέσεως καὶ ἐξ ὅλης
τῆς ἰσχύος καὶ τὸ ἀγαπᾶν τὸν πλησίον ὡς ἑαυτὸν
περισσότερόν ἐστιν πάντων τῶν ὁλοκαυτωμάτων καὶ θυσιῶν. 34 καὶ ὁ Ἰησοῦς ἰδὼν [αὐτὸν]
ὅτι νουνεχῶς ἀπεκρίθη εἶπεν αὐτῷ· οὐ μακρὰν εἶ ἀπὸ τῆς βασιλείας τοῦ θεοῦ. Καὶ οὐδεὶς
οὐκέτι ἐτόλμα αὐτὸν ἐπερωτῆσαι. (Mk. 12:28-34 BGT) |
28
và sau khi nghe họ tranh luận, và thấy rằng Đức Giê-su trả lời họ cách rành mạch, một trong các kinh sư tiến
đến, anh ta hỏi Người: “Điều răn nào là điều răn đứng đầu trong các điều răn” 29
Đức Giê-su trả lời rằng điều
răn đứng đầu là: “Hãy nghe, Ít-ra-el, Đức
Chúa Thiên Chúa của chúng ta là Đức Chúa duy nhất 30
Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của của
ngươi từ toàn thể trái tim của ngươi và từ toàn thể linh hồn của người và từ toàn thể trí năng của ngươi và từ toàn thể sức lực của ngươi 31
Đây là điều thứ hai:
“Ngươi phải yêu mến người
thân cận của ngươi như chính ngươi. Không có điều răn nào khác lớn hơn những điều răn này. 32
và người kinh sư nói cùng Người: “Tốt lắm, thưa Thầy, Thầy nói dựa trên sự thật
rằng Người [Thiên Chúa] là duy nhất và không còn ai khác ngoài Người. 33
Yêu mến Người từ toàn
thể trái tim, từ từ toàn thể trí năng và từ
toàn thể sức lực và yêu mến người thân cận như
chính mình thì tuyệt vời hơn tất cả mọi của lễ
toàn thiêu và hy lễ. 34
và khi thấy rằng anh ta trả lời cách khôn ngoan
như thế, Đức Giê-su liền nói cùng anh ta: “Ngươi
không xa Nước Thiên Chúa và không có ai dàm hỏi Người nữa”. |
Bối cảnh
Đoạn văn Mc
12,28-34 nằm trong loạt trình thuật về những hoạt động và giảng dạy của Đức
Giê-su diễn ra tại Giê-ru-sa-lem (Mc 11,1 – 13, 37). Từ khi Đức Giê-su bước vào
Giê-ru-sa-lem, cuộc xung đột giữa Người và những nhóm lãnh đạo Do Thái ngày
càng nóng lên. Những xung đột này sẽ dẫn đến ý định loại bỏ Đức Giê-su như loại
bỏ một cái gai trong mắt của nhiều nhóm lãnh đạo này. Sau khi nghe biết Đức
Giê-su “thanh tẩy đền thờ” ngay ngày thứ hai bước vào Giê-ru-sa-lem, các thượng
tế và kinh sư đã quyết định giết Người (Mc 11,15-19). Sự kiện “thanh tẩy đền thờ”
là phần ruột của chiếc bánh mì kẹp thịt, tường thuật về việc Đức Giê-su nguyền
rủa cây vả, vì nó không sinh trái và nó đã chết khô (Mc 11,12 – 14.20-21).
Mác-cô có lẽ muốn nói đến một nền phụng tự nặng hình thức (cây vả nhiều lá)
nhưng không có lòng mến thật sự (không sinh trái). Ngay sau đó, các thượng tế,
kinh sư và kỳ mục đã đến chất vấn Đức Giê-su về quyền mà Người dám làm điều đó.
Kết thúc dụ ngôn “tá điền sát nhân” với nhiều ám chỉ đến những lãnh đạo Do
Thái, họ lại tìm cách bắt Đức Giê-su (Mc 12,12). Trong bối cảnh trực tiếp tranh
luận giữa người kinh sư trong câu chuyện và Đức Giê-su, nằm ngay sau chất vấn của
nhóm Xa-đốc về sự phục sinh của người chết (Mc 12,18-27). Mc 12,28-34 dường như
là bản văn duy nhất cho độc giả thấy sự đồng thuận giữa suy nghĩ của Đức Giê-su
và người kinh sư. Nó vừa khắc họa sự hiểu biết đúng đắn của Đức Giê-su về các điều
răn, vừa khép lại tất cả các cuộc tranh luận hay chất vấn vì “không ai dám chất
vấn Người nữa” (12,34). Trong bối cảnh rộng hơn, chủ đề xung đột giữa Đức
Giê-su và các kinh sư (+ Pha-ri-sêu) làm cho độc giả nhớ lại những cuộc tranh
luận đầu tiên giữa nhóm này và Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Các kinh sư
đã cho rằng Đức Giê-su nói phạm thượng vì Người công bố ơn tha tội cho người bị
bại liệt (Mc 2,5-7); Những người pha-ri-sêu bàn tính với phe Hê-rô-đê để tìm
cách giết Đức Giê-su (Mc 3,6); Tranh luận về nghi thức rửa tay trước khi ăn (Mc
7,1-23). Chủ đề về “các điều răn” đưa người đọc về bộ luật được gọi là “Mười Lời”
(Mười Điều Răn) mà Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-el trong Torah (Xh 20,2-17;
Đnl 5,1-21), cũng như toàn bộ các chỉ dẫn trong toàn bộ sách Torah, thường được
gọi là “Sách Luật” (// với Các Ngôn Sứ). Câu trả lời của Đức Giê-su tập trung
vào lời dạy trong Đnl 6,4-5 về mệnh lệnh “yêu Chúa”, và Lv 19,18, về điều răn
“yêu người láng giềng”. Ngoài ra, chủ đề “Nước Thiên Chúa” là một chủ đề được mở
ra ngay lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su và trải dài trong suốt cuộc đời
rao giảng của Người. Nó được xem như là gia nghiệp cho những ai theo Chúa.
Cấu trúc
Có thể nhìn thấy đoạn văn này gồm 4
cặp thành phần song song với nhau (a//a’; b//b’; c//c’; d//d’). Sự song song
này diễn tả sự đồng thuận giữa câu trả lời của Đức Giê-su và xác nhận của người
kinh sư đã đặt câu hỏi cho Người.
Bối
cảnh: Kinh sư, Đức Giê-su, câu hỏi (12,28) (a) Đức Chúa là Đức Chúa
duy nhất (12,2) (b) Phải yêu mến Đức Chúa
từ toàn thể trái tim, linh hồn, trí năng, sức lực (12,30) (c) Phải yêu mến người thân cận như
chính mình (12,31) (d) Không có điều răn nào khác lớn hơn điều răn này. (a’) Đức Chúa là duy nhất (12,32) (b’) Yêu mến Đức Chúa từ
toàn thể trái tim, trí năng, thể sức lực (12,33a) (c’)
Yêu mến người thân cận như chính mình (12,33b) (d’) tuyệt vời hơn tất cả mọi của lễ toàn thiêu và hy lễ
(12,33c) Kết
thúc: Không còn xa Nước Thiên Chúa, không ai hỏi nữa (12,34) |
Một số điểm chú giải
1. Một
trong các kinh sư: Tiếp tục loạt tranh luận giữa Đức Giê-su và giới lãnh đạo
Do Thái, kinh sư này tiến lên để chất vấn với Đức Giê-su. Ngay trước đoạn này
là cuộc tranh luận về “sự sống lại của người chết” giữa Đức Giê-su và nhóm Xa-đốc
(Mc 12,18-21), với kết luận là “các ông” (những người Xa-đốc) lầm to” khi chủ
trương không có sự sống lại. Trước đó, những người Pha-ri-sêu và vài người thuộc
phe Hê-rô-đê muốn gài bẫy Đức Giê-su, nên hỏi Người có phải nộp thuế cho
Kai-sar hay không (Mc 12,13-17). Các kinh sư cũng đã xuất hiện cùng với các Thượng
tế và kỳ mục trong cuộc chất vấn về quyền bính mà Đức Giê-su dám “thanh tẩy đền
thờ” (Mc 11,27-33). Các cuộc tranh luận xảy ra với một tần xuất rất dày. Đối thủ
tranh luận cũng rất nhiều loại người: Từ chức sắc tôn giáo (các Thượng tế),
chuyên gia nghiên cứu (kinh sư), nhóm đạo đức (Pha-ri-sêu) đến nhóm chính trị
(phe Hê-rô-đê). Đề tài tranh luận cũng rất phong phú, đa dạng, từ vấn đề chính
trị, xã hội cho đến quyền bính và đạo lý tôn giáo.
Kinh sư là nói
chung cho một người giải thích Luật. Như thế, ông ta được giới thiệu như là một
chuyên gia hay thầy dạy về Luật.[1] Kinh sư là một trong những
đối thủ chính yếu của Đức Giê-su. Khi nghe Đức Giê-su giảng dạy, thiên hạ đã sửng
sốt, vì người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư
(Mc 1,22; Mt 7,29). Nhận định này đã cho thấy đẳng cấp và vị trí của Đức Giê-su
trong lòng dân chúng, so với thẩm quyền và đẳng cấp của những kinh sư. Các kinh
sư tỏ ra khó đón nhận, khi Đức Giê-su thường đến ăn uống với những người tội lỗi
và những người thu thuế (Mc 2,16; Lc 5,30; 15,2). Họ hạ giá Đức Giê-su bằng
cách tung tin giả rằng người bị ủy vương Bê-el-dê-bul ám và dựa vào thế quỷ
vương mà trừ quỷ (Mc 3,22). Hợp với những người Pha-ri-sêu, họ tranh luận với
Người về việc các môn đệ không làm nghi thức rửa tay trước khi ăn (Mc 7,1-13);
Quyền tha tội (Mt 9,3; Lc 5,21); Chữa lành bệnh nhân vào ngày Sa-bát (Lc
13,10-17). Đức Giê-su liệt kê các kinh sư vào trong số những người sẽ loại bỏ
Người (Mc 8,31; Lc 9,22); lên án xử tử Người và nộp Người cho dân ngoại (Mc
10,33; Mt 16,21; 20,18). Cùng với các Thượng tế, các kinh sư tìm cách giết Đức
Giê-su (Mc 11,18; Lc 19,47). Các kinh sư được Đức Giê-su phác họa như là những
người “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi
nơi công cộng” (Mc 12,38; Lc 20,46; cf. Mt 23). Cuối cùng, chính họ đã bàn mưu
bắt Đức Giê-su để giết người (Mc 14,1; Lc 20,19). Âm mưu này được hiện thực hóa,
khi họ sai đám đông mang gươm giáo gậy gộc đến bắt Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu
(Mc 14,43).[2]
Trong cùng một trình thuật về điều răn trọng nhất, cả Mát-thêu và Luca đều cho
rằng, nhân vật Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su nhằm “thử Người” (Mt 22,35; Lc 10,25).
Khác với Luca và Mát-thêu, Mác-cô cho thấy người kinh sư xem chừng không có gì
gây hấn với Đức Giê-su cả. Ông thấy Đức Giê-su trả lời tốt nên mới đến hỏi Người.
Ông có sự đồng thuận với Đức Giê-su về điều răn đứng đầu trong các điều răn và
được Đức Giê-su khen là “không còn xa Nước Thiên Chúa”. Phải chăng đây là một trong
những hình ảnh tích cực về người kinh sư? Hay là hình ảnh của một kinh sư được
Đức Giê-su khuất phục, vì sự khôn ngoan của Người? Câu khen ngợi của vị kinh sư
này dành cho Đức Giê-su (Thầy trả lời hay quá) cho thấy ông ta bị ấn tượng trước
câu trả lời của Đức Giê-su. Sự ấn tượng này dường như cũng là nguyên nhân mà vị
kinh sư này đến để hỏi Đức Giê-su: “Khi thấy Đức Giê-su trả lời rành mạch” các
câu hỏi của nhóm Xa-đốc (Mc 12,28). Xem ra, vị kinh sư này không có gì gây hấn,
hay thù ghét gì với Đức Giê-su cả, và cuối cùng Đức Giê-su cũng nói một câu rất
tích cực về ông: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa nữa đâu” (Mc 12,34).[3]
2. “Điều
răn” (ἐντολὴ= en-tô-lê):[4]
Danh từ “en-tô-lê” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là: (1) Một mệnh lệnh cụ thể
cho một hành động cụ thể: “Các Thượng tế và người Pha-ri-sêu ra một mệnh lệnh,
để ai biết Người ờ đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga 11,57); (2) “Lệnh truyền”,
“mệnh lệnh”, “điều răn” của Chúa trong Cựu Ước. Những điều răn trước hết có thể
hiểu là “Mười Điều Răn” được ghi lại trong sách Xuất Hành và sách Đệ Nhị Luật
(Xh 20,2-17; Đnl 5,1-21). Tuy nhiên, thuật ngữ “những điều răn” còn ngụ ý đến tất
cả những quy định, chỉ thị mà Chúa ban trong toàn bộ Ngũ Thư (Torah, Sách Luật). Truyền thống Do Thái đúc kết các điều luật trong Torah thành 613 điêu răn, trong đó, có 248 điều tích cực phải làm (số 248 tượng trưng cho số xương, và bộ phận con người) và 365 điều răn mang tiêu cực không được làm (365 tượng trưng cho số ngày trong năm). Người kinh sư muốn ngụ ý rằng, theo Đức Giê-su, trong tất cả những quy định, luật
lệ, điều răn được ghi lại trong Ngũ Thư, điều nào là điều đứng đầu? Và câu câu
trả lời của Đức Giê-su bao quát toàn bộ sách Luật. Trước khi bản văn Mười Lời
(Mười Điều Răn) được ban cho ông Mô-sê và dân Ít-ra-el (Xh 20 và Đnl 5), danh từ
“các điều răn” (số nhiều) đã được nói đến trong sách Sáng Thế: “Ta sẽ làm cho
con cháu của ngươi như những ngôi sao trên bầu trời và sẽ ban đất này cho con
cháu ngươi, và qua con cháu ngươi mọi quốc gia sẽ được chúc lành. Bởi lẽ,
Áp-ra-ham, cha của ngươi đã vâng lời Ta và giữ những chỉ dẫn, những điều răn
(τὰς
ἐντολάς), những thánh chỉ và luật điều của Ta” (Xh 6,4-5). Những điều mà
dân Ít-ra-el được mời gọi phải tuân giữ gồm có “những điều răn”, “thánh chỉ”,
“mệnh lệnh” (Đnl 5,31; 6,2; 8,11; 11,1; 26,17; 1 V 2,3; 1 V 8,58). Mục đích của
việc giữ các điều răn là để dân có thể có sức mạnh, để đi vào và chiếm đất hứa
và để được sống lâu trong mảnh đất tràn đầy sữa và mật (Đnl 11,8-9). Hơn nữa toàn
bộ thần học trường phái Đệ Nhị Luật đều nhấn mạnh đến lòng trung thành, tình yêu
dành cho Đức Chúa. Tình yêu và lòng trung thành đối với Đức Chúa là căn nguyên
cho sự an toàn và phồn vinh của quốc gia. Ngược lại, bị xâm chiếm và mất nước là
bắt nguồn từ việc các vua Chúa cũng như dân chúng bất trung, chạy theo thần ngoại.
Cách đánh số mười
điều răn theo truyền thống Do Thái, Anh Giáo, Chính Thống Giáo, Nhóm Cải Cách (Calvinism),
Tin Lành Luther và Công Giáo.
Mười Lời (Xh 34,28; Dt 4,13; 10,4) |
Do Thái |
Anh Giáo, Chính Thống Hy Lạp, Cải cách |
Công Giáo, Luther |
2 Ta
là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Ðấng đã đem ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi
nhà tôi mọi: |
1 |
Lời ngỏ |
1 |
3 Ngươi
không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. |
2 |
1 |
|
4 Ngươi
không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất
thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. 5 Ngươi
không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên
Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt
con cháu đến ba bốn đời, vì tội lỗi của cha ông.6 Còn với những ai yêu mến
Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. |
2 |
||
7 Ngươi
không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì ĐỨC
CHÚA không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. |
3 |
2 |
|
8 Ngươi
hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh.9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ
lao động và làm mọi công việc của ngươi.10 Còn ngày thứ bảy là ngày
sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm
công việc nào, cả ngươi cũng như con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và
ngoại kiều ở trong thành của ngươi.11 Vì trong sáu ngày, ĐỨC CHÚA đã dựng
nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ
bảy. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh. |
4 |
3 |
|
12 Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của
ngươi, ban cho ngươi. |
5 |
4 |
|
13 Ngươi
không được giết người. |
6 |
5 |
|
14 Ngươi
không được ngoại tình. |
7 |
6 |
|
15 Ngươi
không được trộm cắp. |
8 |
7 |
|
16 Ngươi
không được làm chứng gian hại người. |
9 |
8 |
|
17 Ngươi
không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được
ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì
của người ta.” |
10 |
9 |
|
10 |
3. “Hãy
nghe” (שְׁמַ֣ע: Shema): Đây
là “mệnh lệnh” rất đặc biệt. Nó xuất hiện cách dày đặc trong sách Đệ Nhị Luật.
Có ít nhất bảy lần mệnh lệnh này được dùng trong sách Đệ Nhị Luật (4,1; 5,1;
6,4; 9,1; 12,28; 20,3; 27,9), trong đó có đến bốn lần danh từ chung “Ít-ra-el”
được đặt ngay sau mệnh lệnh này trong dạng hô ngữ (Hãy nghe! Hỡi Ít-ra-el: שְׁמַ֣ע יִשְׂרָאֵ֗ל). Cụm từ này được
dùng để hiệu triệu và khuyên nhủ toàn dân Ít-ra-el lắng nghe cho kỹ và để ý
tuân giữ những điều răn, nguyên tắc, luật lệ trước khi họ bước vào đất hứa là đất
mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ. Động từ “nghe” không chỉ là hành động của thính
giác, nhưng nó bao gồm cả hành động của trí năng (hiểu biết: St 11,7; 1 V 3,6)
và con tim (tuân phục: Xh 24,7; 2 V 14,11). Như thế, mệnh lệnh này có thể được
hiểu là “hãy lắng nghe, hãy để ý, hãy hiểu, xác tín và hãy giữ” những điều sẽ
nói sau đó. Nội dung của “Shema” được xem như là lời tuyên xưng đức tin của người
Ít-ra-el. Nó được đọc đi đọc lại hằng ngày trong Đền Thờ, cùng với Mười Điều
Răn.[5]
4. Đức
Chúa duy nhất … không có ai khác ngoài Người: Đây là xác tín đầu tiên của
Shema. Theo nguyên ngữ tiếng Híp-ri: “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta là Đức
Chúa một” (אֶחָֽד = e-khad = số một, một
mình). “Một” có thể hiểu là “duy nhất”, chỉ một mình Người là Thiên Chúa, ngoài
Người ra không có thần nào khác nữa. Đặc tính này trước tiên nhấn mạnh đến
sự độc quyền của tương quan giao ước của Ít-ra-el với Đức Chúa. Sau đó, trong
giai đoạn sau trong sự phát triển của truyền thống Đệ Nhị Luật, những lời này
được giải thích như là phát biểu đức tin của chủ nghĩa độc thần (cf.
4,35.39; Dcr 14,9) và trở thành lối diễn tả biểu tượng cho bản chất của Do Thái
Giáo.[6] Ngoài việc xác nhận lại
“tính một” của Thiên Chúa trong câu trả lời của Đức Giê-su, người kinh sư còn
thêm vào lời giải thích “không có ai khác ngoài Người ra”. Cách hiểu của người
kinh sư trong câu chuyện này, cho thấy rõ niềm tin một tôn giáo độc thần.
Cách hiểu này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các bản văn Cựu Ước (Xh 8,10;
Đnl 4,35.39; 32,39; 2 Sm 7,22; Is 44,6; Ge 2,27). Lời đầu tiên trong Mười Lời,
Đức Chúa giới thiệu là: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã mang
các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ” (Xh 20,2). Lời này nhấn mạnh
tương quan giữa Ít-ra-el và Đức Chúa như là tương quan của thân phận người nô lệ
và Đấng giải thoát. Đây cũng là một mối tương quan nền tảng cho niềm tin của
dân Ít-ra-el. Đức Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và lập Giao Ước với
họ. Trong cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, chỉ có Mác-cô trích lại mệnh lệnh
“Shema” và mệnh đề diễn tả căn tính của Thiên Chúa. Cả Mát-thêu và Luca đều
không trích câu đầu tiên này (Mt 22,37; Lc 10,27; Đnl 6,4). Như thế, đối với
Mác-cô điều răn quan trọng hàng đầu phải bao gồm sự hiểu biết, xác tín về căn
tính một Thiên Chúa duy nhất. Dựa trên nền tảng đó, điều răn yêu thương mới được
xác lập. Theo Mishnah (chú giải của các rabbi Do Thái), “Shema” là một lời chúc
lành được người đàn ông Ít-ra-el lặp lại mỗi ngày hai lần vào buổi sáng
và vào buổi tối. Nội dung của “Shema” vào thế kỷ thứ III C.E bao gồm Đnl 6,4-9;
Đnl 11,13-21; Ds 15,37-41; 15,39-40.[7]
5. Từ toàn thể trái tim …
toàn thể linh hồn … toàn thể trí năng … toàn thể sức lực: Sau khi mời gọi
hiểu và xác tín căn tính của Đức Chúa, “Shema” mời gọi “hãy yêu”. Động từ
yêu này được bổ nghĩa bởi một loạt bốn ngữ giới từ, nhằm giải thích cách thức
hay mức độ của hành động “yêu”. Giới
từ được dùng lặp lại trước bốn ngữ danh từ này hơi khác nhau giữa bản văn
Híp-ri và bản dịch Hy lạp (Bản Bảy Mươi), cũng như bản được Đức Giê-su trích lại
trong Tân Ước. Trong bản tiếng Híp-ri, giới từ được dùng là “בְּ”, có nghĩa là “với, trong, từ”: “Với toàn
thể trái tim và với toàn thể linh hồn và với toàn thể sức lực”. Trong bản dịch
Hy Lạp cũng như bản được Đức Giê-su trích lại trong Tân Ước, giới từ là “ἐξ”, có nghĩa là
“từ, từ trong”: “Xuất phát từ toàn thể trái tim, từ toàn thể linh hồn, từ toàn
thể sức lực” (Đnl 6,5). Trong câu trích dẫn, Đức Giê-su có thêm một ngữ giới từ
“xuất phát từ trong toàn thể trí năng” (ἐξ ὅλης τῆς διανοίας)
(Mc 12,30)[8], vốn không tồn tại trong bản
văn Cựu Ước. Bản dịch Việt Ngữ của nhóm CGKPV và NTT không nhấn mạnh trên giới
từ, và dịch là “hết lòng hết dạ và hết sức anh em” (Đnl 6,5); “hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” (Mc 12,30). Cách dịch này cũng gột tả được
mức độ cao nhất của hành động yêu. Các bản dịch Anh (ESV: With), Ý (CEI: Con),
Tây Ban Nha (CAB: Con), đều chọn cách dịch giới từ “ἐξ” là “với”. Riêng bản tiếng Pháp chọn
cách dịch là “từ” (TOB: De). Cách dịch này vừa cho thấy nguồn gốc của hành động
yêu, lẫn mức độ yêu, mà một người dành cho Đức Chúa.
Tính từ “ὅλος” (toàn thể, tất cả) dùng với một danh từ để chỉ
mức độ bao trùm, toàn thể của danh từ được dùng. Tính từ này được lặp lại bốn lần,
như một điệp khúc diễn tả mức độ toàn vẹn nhất của hành động yêu dành cho Chúa.
Có bốn danh từ được liệt kê: “trái tim” (trung tâm của đời sống
tinh thần, hữu thể bên trong), linh hồn (sự sống, cảm giác, cảm xúc, và ước
muốn), trí năng (sự thông minh, suy nghĩ và hiểu biết), và sức lực
(khả năng, năng lượng để hành động).[9] Tất cả những khái niệm này
biểu thị cho toàn bộ con người cả nội tại và ngoại tại, từ cảm xúc, suy nghĩ đến
hành động. Tất cả đều dành để yêu mến Thiên Chúa. J. Marcus cho rằng điều răn
thứ nhất mà Đức Giê-su nêu lên, thực ra, rất giống với điều răn thứ nhất trong
Mười Điều Răn (Thứ nhất: Thờ phượng Đức Chúa trên hết mọi sự).[10] Tuy nhiên, nói đúng hơn
điều răn thứ nhất mà Đức Giê-su đê cập bao trùm cả 3 điều răn đầu tiên của Thập
Điều: Thờ Phượng Chúa, không dùng danh Chúa cách bất xứng, giữ ngày Sa-bát.
6. Người
thân cận (τὸν πλησίον): Điều răn thứ hai đòi hỏi
người ta “yêu người khác”, cụ thể là người “thân cận”. Mặc dù vị kinh sư chỉ hỏi
Đức Giê-su về một điều răn (số ít) quan trọng nhất, Đức Giê-su lại nói đến một
điều răn thứ hai. Điều này chứng tỏ rằng Đức Giê-su muốn nói rằng không phải chỉ
có một điều quan trọng nhất, mà có cả hai điều quan trọng như nhau. Hay nói
đúng hơn, nó là một điều răn kép, tóm gọn toàn thể các điều răn.[11] Nó bao gồm cả hai chiều
kích của hành vi yêu thương: Chiều dọc (giữa con người và Thiên Chúa) và
chiều ngang (giữa con người với con người). Điều răn “yêu Chúa” không thể tách
rời khỏi điều răn “yêu người thân cận”. Vì lẽ đó, sau đó, vị kinh sư gom hai điều
răn này thành một: “Yêu mến Người từ toàn thể trái tim, từ từ toàn thể trí năng
và từ toàn thể sức lực và yêu mến người thân cận như chính mình thì tuyệt vời
hơn tất cả mọi của lễ toàn thiêu và hy lễ” (12,33).[12] Danh từ “người thân cận”
trong tiếng Hy Lạp (πλησίον) có nghĩa là những người hàng xóm, người
ở gần, hay bạn hữu.[13] Trong Cựu Ước “người thân
cận [רע] thường được hiểu như
là những người đồng chủng tộc Do Thái, so với ngoại kiều, và những dân tộc
chung quanh (Lv 19,17.18a). Điều răn yêu thương người thân cận như chính mình
được Đức Giê-su trích lại từ sách Lê-vi: “Ngươi không được báo thù, hoặc
oán hận, chống lại những người con của dân ngươi, nhưng ngươi phải yêu người
thân cận của ngươi như chính ngươi: Ta là Đức Chúa” (Lv 19,18). Tuy nhiên, ngoại
diên của thuật ngữ “người thân cận”, “ranh giới” về nghĩa của danh xưng này được
mở ra đến vô tận, không trừ một ai dưới thời của Đức Giê-su. Để trả lời cho câu
hỏi của người kinh sư “nhưng ai là người thân cận của tôi?”, Đức Giê-su kể dụ
ngôn “người Sa-ma-ri nhân hậu”, nhằm giúp người kinh sư tự nhận ra và đặt lại
câu hỏi “Tôi là người thân cận của ai?” chứ không không phải là “Ai là người
thân cận của tôi?”. Tất cả những người đau khổ ta gặp bên đường trong cuộc đời đều
là người thân cận của ta (x. Lc 10,29-37).
Ngoài ra, Đức Giê-su còn mở rộng đối tượng
của hành vi “yêu thương” ra đến vô tận khi Người dạy là “phải yêu thương kẻ thù
và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 5,43-48; Lc 6,27-36). Thật
ra, tư tưởng này cách nào đó nhấn mạnh và mở rộng hơn lời dạy của Lv 19,18,
trong đó Đức Chúa dạy rằng: “Ngươi không được báo thù, hoặc oán hận chống lại
những người con của dân ngươi, nhưng ngươi phải yêu người thân cận của ngươi
như chính ngươi”. Khái niệm “kẻ thù” trong lời dạy của Đức Giê-su không còn là
những người đồng hương nữa, mà có thể là bất cứ người nào, thuộc dân nào.
Tác giả Gioan đã ghép hai điều răn yêu
Chúa và yêu người lại thành một. Hay nói đúng hơn, theo Gioan, “yêu người” là
hành vi bộc lộ ra, chứng tỏ rằng một người có yêu Chúa hay không. Thánh Gioan
nói rằng: “Ai nói rằng tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy
lả kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không
thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4,20). Rồi, tác giả nhắc
lại: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: Ai yêu mến Thiên Chúa thì
cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,21).
Thánh Phao-lô cũng áp dụng điều răn “yêu
thương người thân cận như chính mình” thiết yếu cho các tín hữu trong các cộng
đoàn: “Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài việc yêu thương lẫn nhau, vì ai
yêu thương người khác, thì đã chu toàn Lề Luật rồi” (Rm 13,8); “Lòng bác ái
không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều
lành, yêu mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình” (Rm
12,9-10).[14]
7. Như
chính ngươi: Hành động “yêu người thân cận như chính mình” giả định một
tình yêu ở mức độ cao nhất, và mang tính tự nhiên, bởi vì không ai ghét chính bản
thân mình. Một cách tự nhiên, ai cũng yêu thương bản thân mình. Mức độ mà một
người yêu thương chính bản thân mình, chính là thước đo cho tình yêu mà họ dành
cho “người thân cận”. Tuy nhiên, đó là mức độ tình yêu người ta dành cho người
thân cận theo quy định của Cựu Ước, mà hầu hết những người Do thái đều biết. Đức
Giê-su qua cái chết của mình, đã “nâng cấp” điểm quy chiếu mới cho tình yêu, mà
một người dành cho người khác. Nó không còn là yêu “như chính mình nữa”, mà
là yêu “hơn chính mình”. Đức Giê-su đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã hy
sinh thân mình. Người đã khẳng định đó là tình yêu ở cảnh giới cao nhất: “Không
có tình yêu nào vĩ đại hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì người
thương của mình” (Ga 15,13; Cf. 1 Ga 3,16). Đây là yếu tố “mới mẻ” trong điều
răn mới, mà Đức Giê-su truyền lại cho các môn đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; 15,12; Cf. 15,17). Mệnh đề so sánh
không còn là “như chính mình nữa” mà là “hệt như Thầy đã yêu thương anh em”. Đó
là tình yêu đến hy sinh thân mình vì kẻ khác. Đó là tình yêu vị tha (yêu người
khác vì chính họ chứ không phải vì mình), ở mức độ hoàn hảo nhất: Hy sinh đến mức
không còn gì để hy sinh nữa, cho đi hết không còn gì để cho nữa.
8. “Của
lễ toàn thiêu (ὁλοκαυτωμάτων) và hy lễ (θυσιῶν)”: Những
chỉ dẫn về của lễ toàn thiêu được ghi lại trong sách Lê-vi. Quy định về lễ vật
toàn thiêu là con bò đực toàn vẹn hay con chiên, hay con dê đực toàn vẹn (Lv
1,2). Hình thức tiến hành được quy định chi ly riêng cho bò và chiên (hay dê)
nhưng cuối cùng là đốt tất cả cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Đó là “hương
thơm làm vui lòng Đức Chúa” (Lv 1,9; 1,13). Người ta cũng có thể dâng một con
chim làm của lễ toàn thiêu, nhưng phải dâng “chim gáy hoặc là bồ câu non” (Lv
1,14). “Lễ toàn thiêu” là một trong các loại hy lễ dùng thú vật. Những loại cơ
bản của Hy Lễ dùng thú vật là: (i) Lễ toàn thiêu (Lv 1; Ds 28; 29); (ii) Lễ hòa
bình (Lv 3); (iii) Lễ thanh tẩy (Lv 12); (iv) Lễ chuộc tội (Lv 4). “Lễ toàn
thiêu” có thể được hiểu như là một hy lễ thu hút sự chú ý của thần linh và kêu
cầu sự hiện diện của thần linh, cho một dịp thờ phượng đặc biệt. Hy Lễ của
Ê-li-a trên núi Các-men là một minh chứng cụ thể cho lễ toàn thiêu (1 V 18).[15] Trong bối cảnh này, kiểu
nói “quý giá hơn mọi của lễ toàn thiêu và hy lễ” nhắc nhớ đến 1 V 15,22: “Có phải
Đức Chúa vui thích với của lễ toàn thiêu và hy lễ hơn là nghe tiếng nói của Đức
Chúa?”; và Os 6,6: “Ta muốn lòng thương xót hơn là hy lễ và nhận biết Đức Chúa
hơn là của lễ toàn thiêu”.[16] Hai bản văn này nhắc đến
việc “nghe giọng nói của Đức Chúa”; “Lòng thương xót” và nhận biết Đức Chúa. Những
hình ảnh này rất giống với bản văn Đệ Nhị Luật mà Đức Giê-su trích dẫn “Hãy
nghe, Ít-ra-el”, yêu mến Chúa “toàn bộ tâm hồn, toàn bộ trí năng, toàn bộ sức lực”;
“yêu mến tha nhân như chính mình”. Quả vậy, tình yêu dành cho Chúa và cho tha
nhân là điều quý gia hơn muôn vàn của lễ toàn thiêu. Lễ toàn thiêu và hy lễ nếu
có, phải được cử hành với tất cả lòng mến dành cho Chúa và cho tha nhân. Đức
Giê-su đã diễn tả quan điểm tình yêu vượt trên mọi của lễ, khi đưa ra một ví
dụ rất thực tế và sống động: “Khi anh sắp dâng của lễ trước bàn thờ, mà sực
nhớ có một người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại trước bàn
thờ, đi làm hòa với người anh em đó đã, rồi trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24).
9. “Không xa Nước Thiên Chúa”: Nước Thiên
Chúa chính là mục đích cho sự hoán cải mà Đức Giê-su mời gọi ngay từ khi khai mạc
sứ vụ rao giảng: “Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh chị em hãy
hoán cải và Tin vào in Mừng (Mc 1, 15). Đi vào Nước Thiên Chúa, đồng nghĩa với
việc có “sự sống đời đời”. Ao ước có “sự sống đời đời” làm gia nghiệp, hay được
vào Nước Thiên Chúa là ao ước của một người giàu có, thành công mỹ mãn trên con
đường làm giàu trên trần gian. Tuy nhiên, anh ta không thể gieo bước hành trình,
để biến giấc mơ thành hiện thực, vì anh ta không dám “bán những gì mình có, rồi
cho người nghèo, rồi đến và theo Đức Giê-su” (x.Mc 10,17-22). Nước Thiên Chúa
cũng là nơi hạnh phúc nhất, mà người ta dám đánh mất một phần thân thể của mình
để được vào (Mc 9,47), thậm chí cả mạng sống của mình để đạt cho được. Nó đối lại
với “Ghe-en-na” (Hỏa Ngục), chốn dau khổ muôn khiếp. Nước Thiên Chúa là chốn mà
Đức Giê-su dạy các môn đệ phải tìm kiếm trước hết, so với cơm ăn hay áo mặc (Mt
6,3: Trước tiên phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn
những thứ khác Người sẽ thêm cho)[17]. Với câu trả lời, bày tỏ
sự đồng thuận với câu trả lời của Đức Giê-su về “điều răn đứng đầu”, Đức Giê-su
cho rằng kinh sư này không còn xa Nước Thiên Chúa, cùng đích của đời mình nữa.
Dĩ nhiên, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh đến mặt tích cực (gần Nước Thiên Chúa), chứ
không phải nhấn mạnh đến mặt tiêu cực là thực tế anh vẫn chưa thuộc về Nước
Thiên Chúa.[18]
Tuy nhiên, “không còn xa”, nghĩa là vẫn chưa đến và còn phải đi tiếp. Anh phải
biến kiến thức khôn ngoan ấy thành hành động, thì mới bước vào Nước Thiên Chúa
được. Cũng như “người giàu có” trong câu chuyện vừa đề cập. Dù cho anh ta đã giữ
các điều răn từ thuở nhỏ, nhưng anh vẫn thiếu một điều: Từ bỏ của cải, hướng về
người nghèo và theo Đức Giê-su.
Trong Tin Mừng Luca, cuộc thảo luận về “điều
răn quan trọng nhất” được đặt trong bối cảnh một nhà thông luật đến hỏi Đức
Giê-su về bí quyết để có “sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Lc 10,25). Luca dường
như ghép hai câu chuyện của Mác-cô thành một câu chuyện: (i) Câu chuyện về người
giàu có tìm kiếm sự sống đời đời làm gia nghiệp (Mc 10,17-22); (ii) Câu chuyện
về điều răn đứng đầu (Mc 12,28-34). Trong trình thuật của Luca (10,25-28), có
câu hỏi về bí quyết làm thế nào để có sự sống đời đời làm gia nghiệp, của câu
chuyện thứ nhất và có cả điều răn đứng đầu trong câu chuyện thứ hai. Kết luận của
Luca gần giống như kết luận của Mác-cô trong câu chuyện thứ hai: “Ông không còn
xa Nước Thiên Chúa nữa” (Mc 12,34) = “Ông trả lời đúng lắm, cứ làm như vậy sẽ
được sống” (Lc 10,28). Nói chung, cả hai đều muốn nối kết điều răn đứng đầu sự
sống đời đời hay Nước Thiên Chúa.
Bình luận tổng quát
Đức Giê-su bước
vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách của Đấng nhân danh Chúa mà đến. Người tiến
vào thành trong sự tiếp đón nồng hậu của dân chúng với những tiếng hò reo vang
dội và hình ảnh áo choàng được trải ra, cũng như cành lá được lót, rải khắp đường
phố, dưới chân Người. Thế rồi, Người đã phải thanh tẩy Đền Thờ vì nơi ấy đã bị
biến thành “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 12,16). Người lên án một thứ hình thức
thờ phượng “không sinh hoa trái” như cây vả đầy lá, nhưng không có quả (12,13).
Trái ngược với sự đón tiếp của dân chúng, cũng như giây phút huy hoàng của ngày
vào thành, Đức Giê-su liên tục phải đối diện với những chất vấn, thù ghét, những
cuộc tấn công của toàn bộ giới lãnh đạo Do Thái: Thượng tế, kinh sư và kỳ mục
(Mc 12,27-33); Nhóm Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê (Mc 12,13-17); Nhóm Xa-đốc (Mc
12,18-27). Những vấn đề tranh luận lần lượt là: Quyền thanh tẩy đền thờ; Nộp
thuế cho Kai-sar; Kẻ chết sống lại. Đỉnh cao của các cuộc tranh luận có lẽ là
câu chuyện về “điều răn trọng nhất” (Mc 12,28-34). Đây là trình thuật kết thúc
những câu hỏi mà nhóm lãnh đạo Do Thái đặt ra cho Đức Giê-su. Trình thuật được
kết thúc bằng câu “không ai dám chất vấn Người nữa” (Mc 12,34). Câu chuyện này
xứng đáng là đỉnh cao của mọi cuộc tranh luận, vì nó đề cập đến cốt lõi, đến
trái tim của toàn bộ hệ thống Lề Luật Do Thái: “Điều răn nào là trọng nhất”.
Câu chuyện này vượt ra khỏi bầu khí thù ghét, rình rập, đánh đố, thử thách vẫn
thường thấy trong các cuộc tranh luận giữa nhóm lãnh đạo Do Thái và Đức Giê-su.
Vị kinh sư này được mô tả như một người hiểu biết, nhìn nhận sự thông thái của
Đức Giê-su. Sau khi thấy, và nghe Đức Giê-su trả lời với nhóm Sa-đốc một cách
rành mạch về vấn đề “người chết sống lại”, ông ta mới đến để hỏi Đức Giê-su về
“điều răn quan trọng nhất”. Kinh sư là một chuyên gia trong việc nghiên cứu và
giải thích Lề Luật. Ông ta hẳn muốn tham vấn Đức Giê-su về điều răn quan trọng
nhất. Có ít nhất Mười Điều Răn và vô số những nguyên tắc luật lệ khác, thế thì
việc xác định điều nào là quan trọng nhất là điều đáng quan tâm. Đức Giê-su
không nói gì ngoài Lề Luật cả, Người trích dẫn chính hai đoạn văn trong sách
Tô-rah để khẳng định cốt lõi của Lề Luật. Thứ nhất, Người trích dẫn “Shema”, lời
tuyên xưng đức tin của Người Do Thái. Đây là những lời mà họ phải “lặp lại những
lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi
đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, phải buộc những lời ấy vào tay
làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, phải viết lên khung cửa nhà anh chị em,
và lên cửa thành của anh chị em” (Đnl 6,7-9). Đó là lời gì vậy. Thưa! Đó là
tình yêu tuyệt đối ở mức độ cao nhất, sâu nhất, dài nhất, rộng nhất mà một người
phải dành cho Đức Chúa, là Đức Chúa duy nhất: “Hãy nghe, Ít-ra-el, Đức Chúa
Thiên Chúa của chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của của ngươi, từ toàn thể trái tim của ngươi và từ toàn thể linh hồn
của người và từ toàn thể trí năng của ngươi và từ toàn thể sức lực của ngươi”.
Tất cả mọi quan năng, và mọi phần thân thể đều được dành trọn cho tình yêu
Chúa. Điều răn thứ hai, hay là phần thứ hai của một điều răn kép, là “yêu
thương người thân cận như chính mình”. Điểm quy chiếu “như chính mình” giả định
một khuynh hướng tự nhiên là ai cũng yêu thương bản thân mình trước hết và hơn
hết. Khái niệm “người thân cận” được Đức Giê-su mở rộng ra là “tất cả mọi người”,
nhất là những người đau khổ. Yêu người thân cận, được mở rộng ra đến vô tận bằng
cách yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi, bắt bớ mình. Mệnh đề
so sánh, quy chiếu cho hành động yêu người thân cận, “như chính mình” cũng được
“nâng cấp” thành “như Thầy đã yêu”. “Như Thầy đã yêu” nghĩa là “dám chết cho
người mình yêu” chứ không chỉ yêu người khác “như yêu chính mình”. Sở dĩ, phải
nâng cấp như thế là vì tình yêu dựa trên tình yêu của con người vẫn bị giới hạn,
bất toàn; chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới tuyệt đối và vô hạn. Đó là tình
yêu ở cảnh giới cao nhất, yêu cho đến mức không còn mạng để yêu nữa; trao ban
cho đến mức không còn gì để trao ban nữa. Một xã hội có càng nhiều người dám
xác tín vào lý tưởng Tin Mừng của Đức Giê-su và dám yêu Chúa hết lòng, yêu người
khác hết “mạng” sẽ là một xã hội càng gần hơn với Vương Quốc Nước Trời mà Đức
Giê-su rao giảng và chuẩn bị cho tất cả mọi người. Vị kinh sư tìm thấy sự hòa hợp
trong câu trả lời của Đức Giê-su và được Đức Giê-su nhìn nhận một cách tích cực.
Đó là một vị kinh sư xác tín cách ngôn ngoan về chân lý cốt lõi của toàn bộ Lề
Luật. Đó là đôi cánh tình yêu: Một bênh giúp ông bay đến Chúa, bên kia bay đến
tha nhân. Cả hai cánh đó, nếu được vỗ đều đặn, liên tục, sẽ nâng con người ông
nhẹ tâng, bay vào quê trời vĩnh cửu.
Lm. Joseph Phạm
Duy Thạch, SVD
[1] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 571.
[2] Xem thêm về “các kinh sư”
trong J.P.D. Thạch, “Bàn Tay Ô Uế hay Lòng Người Không Thanh Sạch” [LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: BÀN TAY Ô UẾ HAY LÒNG NGƯỜI KHÔNG
THANH SẠCH. Chú Giải Tin Mừng CN XXII TN B (Mc 7,1-8.14-15.21-23)
(josephpham-horizon.blogspot.com)] (truy cập 26/10/2021).
[3] C.A. Evans, Mark
8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 34B, 263.
[4] Từ diển BDAG, “ἐντολὴ”.
[5] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary (AYB; New Haven –
London 2008) XXVII A, 837.
[6] M. Dominik, “Deuteronomy”,
The Paulist Biblical Commentary (ed. R.J. Clifford et al.) (NewYork
2018) 163.
[7] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 573.
[8] Bản của Mát-thêu không có cụm
giới từ “với toàn thể sức lực”, chỉ có ba ngữ giới từ “trong toàn thể trái tim,
trong toàn thể linh hồn, và trong toàn thể trí năng” (Mt 22,37).
[9] C.A. Evans, Mark
8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 34B, 264.
[10] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 837.
[11] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 574.
[12] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 843.
[13] BDAG, “πλησίον”
[14] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 575.
[15] X. G.A. Anderson,
“Sacrifice and Sacrificial Offerings”, The Anchor Bible Dictionary (ed.
D.N. Freedmn et al.) (Nework – London – Toronto – Sydney – Auckland) V: O-Sh,
877-878; S. Rattray, “Worship”, The HarperCollins Bible Dictionary (ed.
P.J. Achtemeier) (NewYork 1996) 1222-1223.
[17] Xem thêm chủ đề Nước
Thiên Chúa trong J.P.D. Thạch, “Bị Ném Vào Ghe-En-Na Hay Đi Vào Nước Thiên
Chúa”, [LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: BỊ NÉM VÀO GHE-EN-NA HAY ĐI VÀO NƯỚC
THIÊN CHÚA. Chú giải Tin Mừng CN XXVI TN B (Mc 9,38-48)
(josephpham-horizon.blogspot.com)] (truy cập 27/10/2021).
[18] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 577.