Bản văn và dịch
sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
38 Ἔφη αὐτῷ ὁ Ἰωάννης· διδάσκαλε, εἴδομέν τινα ἐν τῷ ὀνόματί
σου ἐκβάλλοντα δαιμόνια καὶ ἐκωλύομεν αὐτόν, ὅτι
οὐκ ἠκολούθει ἡμῖν. 39 ὁ δὲ Ἰησοῦς εἶπεν· μὴ κωλύετε αὐτόν. οὐδεὶς γάρ
ἐστιν ὃς ποιήσει δύναμιν ἐπὶ
τῷ ὀνόματί μου καὶ δυνήσεται ταχὺ κακολογῆσαί με· 40 ὃς γὰρ οὐκ ἔστιν καθ᾽ ἡμῶν, ὑπὲρ ἡμῶν ἐστιν. 41 Ὃς γὰρ ἂν ποτίσῃ ὑμᾶς
ποτήριον ὕδατος ἐν ὀνόματι
ὅτι Χριστοῦ ἐστε,
ἀμὴν λέγω ὑμῖν ὅτι οὐ μὴ ἀπολέσῃ τὸν μισθὸν αὐτοῦ. 42 Καὶ ὃς ἂν σκανδαλίσῃ ἕνα τῶν μικρῶν
τούτων τῶν πιστευόντων [εἰς ἐμέ], καλόν ἐστιν αὐτῷ μᾶλλον εἰ περίκειται μύλος ὀνικὸς περὶ τὸν τράχηλον αὐτοῦ
καὶ βέβληται εἰς τὴν θάλασσαν. 43 Καὶ ἐὰν σκανδαλίζῃ σε ἡ χείρ σου, ἀπόκοψον αὐτήν· καλόν ἐστίν
σε κυλλὸν εἰσελθεῖν εἰς τὴν ζωὴν ἢ τὰς δύο χεῖρας ἔχοντα ἀπελθεῖν εἰς τὴν γέενναν,
εἰς τὸ πῦρ τὸ ἄσβεστον. 44 45 Καὶ ἐὰν ὁ πούς σου σκανδαλίζῃ σε, ἀπόκοψον αὐτόν· καλόν ἐστίν
σε εἰσελθεῖν εἰς τὴν ζωὴν χωλὸν ἢ τοὺς δύο πόδας ἔχοντα βληθῆναι εἰς τὴν γέενναν. 46 47 Καὶ ἐὰν ὁ ὀφθαλμός σου σκανδαλίζῃ σε, ἔκβαλε αὐτόν· καλόν
σέ ἐστιν μονόφθαλμον εἰσελθεῖν εἰς τὴν βασιλείαν τοῦ θεοῦ ἢ δύο ὀφθαλμοὺς ἔχοντα
βληθῆναι εἰς τὴν γέενναν, 48 ὅπου ὁ σκώληξ αὐτῶν οὐ
τελευτᾷ καὶ τὸ πῦρ οὐ σβέννυται. (Mk. 9:38-48
BGT) |
38 Gioan đã nói cùng Đức Giêsu: “Thầy
ơi! Chúng con thấy một ai đó nhân danh thầy mà trừ quỷ và chúng con cứ ngăn cấm anh ta, bởi vì anh ta không đang theo chúng
ta. 39 Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Đừng ngăn cấm anh ấy, vì không
ai, người làm phép lạ nhân danh thầy và nói xấu thầy một cách nhanh chóng. 40 Vì ai
không chống lại chúng ta là, ủng hộ chúng ta. 41 Vì nếu ai
cho anh em uống một cốc nước vì danh nghĩa rằng anh em thuộc về Đấng Kitô, thì
thầy bảo thật anh em rằng phần thưởng của anh ta không bị hư mất 42 và nếu ai
làm cớ vấp ngã cho một trong những người bé nhỏ đang
tin Thầy, thì tốt hơn cho anh ta nếu cối đá lớn
quanh cổ anh ta và anh ta bị ném xuống biển rồi. 43 và nếu bàn
tay của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy cắt nó đi, cụt tay mà đi vào sự sống
thì tốt hơn có hai bàn tay mà đi vào Gheenna vào lửa không tắt. 44 45 và nếu bàn
chân của anh làm cho anh sa ngã, thì hãy cắt nó đi, cụt chân mà đi vào sự sống
thì tốt hơn có hai bàn chân mà đi vào Gheenna. 46 47 và nếu mắt
của anh làm cho anh sa ngã thì hãy lấy nó ra ngoài, một mắt mà vào Nước Thiên
Chúa thì tốt hơn có hai mắt mà bị ném vào Gheenna 48 nơi giòi bọ không hề chết và lửa
không hề tắt. |
Cấu trúc: Đoạn Tin Mừng Mc 9,38-48 có thể được chia thành
3 phần nhỏ dựa theo chủ đề của từng phần. Phần thứ nhất là một cấu trúc song
song gồm có hai tiểu thành phần: (a) Các môn đệ ngăn cấm một người trừ quỷ nhân
danh Đức Giêsu// (a’) Mệnh lệnh của Đức Giêsu: Đừng ngăn cấm anh ta; (b) Lý do
ngăn cấm: Vì anh ta không theo nhóm các môn đệ// (b’) Lý do không ngăn cấm: Vì
không chống là ủng hộ. Phần thứ hai nói về việc đối đãi các môn đệ vì danh Đức Giêsu
và phần thưởng của việc đối đãi đó. Phần thứ ba: Các cớ gây vấp phạm và cách thức
xử lý tốt nhất.
I.
Bối cảnh: Một ai đó trừ quỷ
nhân danh Đức Giêsu (9,38a) (a) Các môn đệ ngăn
cấm (9,38b) (b) Lý do ngăn cấm:
không theo (9,38c) (a’) Đức Giêsu ra lệnh
“đừng ngăn cấm” (9,39a) (b’) Lý do không
ngăn cấm: không chống là ủng hộ (9,39b-40) II.
Cho uống một cốc nước vì danh Đức Kitô và phần thưởng (9,41) III.
Cớ sa ngã và giải pháp: Điệp khúc 4 lần “Nếu… thì” (a) Con người
– buộc cối đá và ném xuống biển (b) Bàn tay –
chặt – đi vào sự sống (c) Bàn chân
– chặt – đi vào sự sống (d) Con mắt –
móc – đi vào Nước Thiên Chúa |
Một số điểm
chú giải
1.
Trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu: Quyền trừ quỷ là quyền riêng của Đức Giêsu. Đây là một trong những năng lực
để nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả
là Nước Thiên Chúa đã đến giữa con người (Lc 11,20; Mt 12,28). Trong bối cảnh gần
nhất, Người vừa mới trục xuất tên quỷ câm gây ra bệnh kinh phong (Mc 9,24-29).
Tuy vậy, Người cũng chia sẻ quyền này cho các môn đệ (Mc 6,7: Người ban cho các
ông quyền trừ quỷ). Nhờ đó, các môn đệ “trừ được nhiều quỷ” (Mc 6,13; Lc 10,17).
Cuối cùng, những người tin cũng có thể trừ được quỷ nhân danh Đức Giêsu (Mc
6,17: Đây là những dấu lạ kèm theo những người tin, nhân danh Thầy họ sẽ trừ được
quỷ; họ sẽ nói được những ngôn ngữ mới). Công thức trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu
được thánh Phaolô sử dụng khi trục xuất quỷ khỏi một đầy tớ gái: “Nhân danh Đức
Giêsu Kitô, tôi truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này” (Cv 16,18). Cụm từ
giới từ “trong danh” (hay nhân danh)[1] được
dùng khá nhiều trong bối cảnh chương 9: “Bất cứ ai đón nhận đứa trẻ nhân danh Đức
Giêsu là đón nhận Người” (9,37); Trừ quỷ nhân danh Đức Giêsu (9,38.39); Cho các
môn đệ uống một cốc nước nhân danh rằng anh em thuộc về Đức Kitô” (9,41). Như
thế, những người không thuộc nhóm các môn đệ, nhưng cũng có thể trừ quỷ nhân
danh Đức Giêsu, miễn là họ tin vào Người. Bất cứ điều gì được làm nhân danh Đức
Giêsu đều là điều tốt và được Đức Giêsu ủng hộ.
2.
Ngăn cấm: Các môn đệ
ngăn cấm người trừ quỷ vì họ không theo nhóm các môn đệ. Cả hai động từ “ngăn cấm”
và “đi theo” cùng được dùng ở thì vị hoàn (chưa hoàn thành), diễn tả một sự tiếp
diễn: Các môn đệ “đang ngăn cấm” vì người này “không đang theo” họ. Có thể họ
ngụ ý là không gia nhập nhóm của các môn đệ.[2] Điều
này ngụ ý rằng trong suy nghĩ các môn đệ, hành động trừ quỷ “nhân danh” Đức Giêsu
đã được Gioan hiểu như là độc quyền của các thành viên nhóm các môn đệ (Mc
6,7-13). Không ai khác có thể làm. Câu nói về sự ngăn cấm này đến từ Gioan. Điều
này cũng không lạ lắm, vì Gioan và Giacôbê được mệnh danh là “con của thần sấm”
(Boenêghê) (Mc 3,17). Chính Gioan và Giacôbê cũng xin lệnh thiêu hủy thành Samari,
khi họ không đón tiếp Đức Giêsu (Lc 9,54), nhưng Đức Giêsu đã không đồng ý và
quở trách các ông (Lc 19,55). Sự thể hiện uy quyền, và bảo vệ đặc quyền đã xuất
hiện trong các môn đệ. Trong chương tiếp theo, các môn đệ cũng ngăn cấm trẻ em
đến với Đức Giêsu và Đức Giêsu cũng ra lệnh là “đừng ngăn cấm chúng” (Mc
10,13-14). Mệnh lệnh của Đức Giêsu cho thấy cách nghĩ của Người hoàn toàn khác
với các môn đệ. Thêm một bài học về sự đón nhận cách người khác cho các môn đệ.
Đức Giêsu vô hiệu hóa lệnh cấm của các môn đệ. Lý do Người đưa ra là: Không ai
nhân danh Người làm phép lạ, rồi lại nói xấu Người ngay lập tức. Nghĩa là, ít
nhất họ cũng tôn trọng Người và hiểu biết rằng sở dĩ quỷ bị trục xuất là nhờ
danh của Đức Giêsu. Các môn đệ đưa ra lý do là “không theo”, Đức Giêsu lại lấy
lý do là không lập tức “nói xấu”. Có vẻ như, Đức Giêsu muốn nói rằng không cần
đi theo, chỉ cần không nói xấu là được. Quyền trừ quỷ không còn là độc quyền của
nhóm các môn đệ nữa, nhưng được ra cho nhiều người khác. Câu chuyện này gợi nhớ
đến câu chuyện trong sách Dân Số, trong đó ông Giôsuê xin ông Môsê ngăn chặn
Eldad và Medad nói tiên tri, vì họ không thuộc nhóm bảy mươi kỳ mục được Thần
Khí ngự xuống. Ông Môsê đã đáp trả rằng: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Thiên
Chúa ban Thần Khí trên toàn dân, để họ đều là ngôn sứ” (Ds 11,26-29). Nhóm các
môn đệ ở đây giống như nhóm bảy mươi kỳ mục, còn người trừ quỷ này ở ngoài
nhóm. Luca dường như nhận ra câu chuyện Eldad và Medad nhấn mạnh Mc 9,38-40, bởi
vì câu chuyện song song của ông với câu chuyện này của Máccô (Lc 9,49-50), gần
như được theo sau bởi câu chuyện Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng
(Lc 10,1). Có nghĩa là, chuyện rao giảng và làm phép lạ không phải là độc quyền
của một nhóm nhỏ các môn đệ.
3.
Không chống …ủng hộ: Đức
Giêsu thêm một mệnh đề chỉ lý do nữa để đảm bảo chắc chắn cho lý do trước: ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta. Đây có thể là một câu tục ngữ người
ta thường dùng thời ấy. Một bản văn giấy cói có niên đại khoảng cuối thế ký thứ
ba hoặc đầu thế kỷ thứ tư (P. Oxy.1224), có thể là một mảng của một Tin Mừng ngụy
thư, thêm đoạn giải thích rằng: “Người hôm nay xa, ngày mai sẽ gần”. Đây cũng
có thể là biểu lộ niềm hy vọng cánh chung của cộng đoàn Máccô về một sự gia nhập
của cộng đoàn của những người ở ngoài.[3] Giới
từ “ὑπὲρ” + túc từ ở thuộc
cách có nghĩa là “thay cho”, “nhân danh”, “vì”. Người này trừ quỷ nhân danh Đức
Giêsu là làm vì Người và thay cho Người. Như vậy, hành vi trừ quỷ của người này
có ý nghĩa là làm thay cho Đức Giêsu, cùng làm với nhóm các môn đệ.
4.
Một cốc nước…không mất phần thưởng:[4] Một
cốc nước như là một hình ảnh hết sức bình thường và đơn giản của đời người, mà
vẫn không mất phần thưởng. Đức Giêsu thường nối kết một hình ảnh thấp nhất với
hình ảnh cao nhất để dạy mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Trước đó, Người đã nối kết
giữa sự đón nhận một đứa trẻ không chút địa vị, hay vị thế xã hội với sự đón tiếp
chính Người và đón tiếp Chúa Cha. Hình ảnh “cho uống một cốc nước” tưởng là
bình thường nhưng “trong danh nghĩa người ấy thuộc về Đức Kitô” thì lại được
đáp trả bằng một phần thưởng. Một nghĩa cử đơn giản trong danh Đức Kitô có thể
trở hành một hành động đáng quý trọng. Danh từ “phần thưởng” (μισθὸς) theo nghĩa đen là sự báo đáp về tài
chính cho những dịch vụ được thực hiện hay có thể dịch là “lương bổng” (Mt
20,8; Ga 4,36). Trong Tân Ước, nó được hiểu cách ẩn dụ như là một phần thưởng
là phúc lành cánh chung, mà những người làm việc cho Chúa hay chịu đau khổ vì đức
tin sẽ được lãnh nhận (Mt 5,12 // Lc 6,23; Lc 6,35).[5]
Hành vi trao tặng người môn đệ một cốc nước đơn giản, sẽ nhận được phần thưởng
cánh chung là phúc lành của Chúa Cha. Hành động cho uống một cốc nước vì lẽ các
môn đệ thuộc về Đức Kitô, song song với hình ảnh một người trừ quỷ nhân danh Đức
Kitô. Họ có thể là người ở ngoài, không thuộc về nhóm các môn đệ. Tuy nhiên,
hành động của họ làm lại là hành động của một người môn đệ, vì họ làm nhân danh
Đức Kitô. Nếu hành động cho “những người thuộc về Đức Kitô uống một cốc nước”
được nhận phẩn thưởng cánh chung thì sứ vụ “trừ quỷ” còn đáng được nhận phần
thưởng gấp bội. Hành động cho người khác uống một cốc nước, nhắc nhớ đến bối cảnh
cánh chung nơi Đức Giêsu ban phần thưởng đời đời cho những người đã cho “kẻ
khát” uống nước (Mt 25,35.37) và trừng phạt kẻ không cho “người khát” uống nước
(Mt 25,42.44).
5.
Cớ vấp ngã (người,
tay, chân, mắt): Một loạt bốn cớ vấp ngã được Đức Giêsu đưa ra. Động từ “σκανδαλίζω” (skandalizo) được lặp lại bốn lần, ở giả định
cách, trong “mệnh đề điều kiện” (nếu…). Đây là loại câu điều kiện diễn tả sự
mong đợi dựa trên một quan điểm chung hoặc cụ thể tồn tại trong hiện tại.[6] Động
từ skandalizo có nghĩa là làm cho ai đó phạm tội, hoặc làm cớ cho ai đó sa ngã.[7] Cấu
trúc của những câu nói về cớ vấp ngã gần như giống nhau hoàn toàn: Cớ vấp ngã +
Giải pháp (Mệnh lệnh) + Giải thích. Ngoại trừ câu văn nói về cớ vấp phạm thứ nhất
không có lời giải thích, còn lại cả 3 câu còn lại đều có đầy đủ 3 thành phần. Cấu
trúc được lặp lại nhiều lần như một điệp khúc.
Cớ vấp ngã thứ nhất là một con người: “Nếu ai đó
làm cớ vấp ngã” và đối tượng có nguy cơ bị vấp ngã cũng là một người (người nhỏ
bé đang tin). Giải pháp tốt hơn cho người này là “treo miếng trên của cối đá
quanh cổ mà ném xuống biển cho rồi”. Nghĩa là, nếu phải chọn giữa việc làm cho
một người bé nhỏ đang tin Đức Giêsu phải sa ngã và buộc miếng trên của cối đá
mà ném xuống biến, thì chọn lựa sau vẫn tốt hơn. Đó là một giải pháp quá nặng nề,
dường như không còn lối thoát cho người ấy. Miếng trên của cối đá là vật rất nặng,
con lừa phải kéo mới xoay được.[8] Với
cối đá như thế trên cổ mà rơi xuống biển thì chết chắc.[9] Động
từ “ném” (βέβληται) cũng có nghĩa rất mạnh. Động từ này được dùng ở thì hoàn thành, trong câu
điều kiện để diễn tả một hành động giả định, không có thực. Nói tóm lại, làm cho
một người bé nhỏ bị sa ngã là một điều rất nặng, thà chết ngộp dưới biển còn
hơn là làm cớ cho người ấy sa ngã. Hình ảnh ném xuống biển gợi nhớ đến hình ảnh
hai ngàn con heo bị quỷ nhập rơi xuống biển và chết ngộp (Mc 5,13). Biển sâu và
nơi chốn của ma quỷ. “Một trong những người bé nhỏ đang tin” Đức Giêsu trong bối
cảnh này rất có thể là “đứa trẻ”.[10] Trước
đó Đức Giêsu đã đặt đứa trẻ giữa các môn đệ và Người đang dạy các môn đệ bài học
về sự đón nhận (Mc 9,36-37). Tuy nhiên, những người bé mọn này cũng có thể được
mở rộng ra cho tất cả những Kitô hữu hiền lành, đơn sơ và giản dị.[11]
Những cớ vấp phạm còn lại là những phần thân thể
tiêu biểu của con người: Bàn tay, bàn chân, con mắt. Bàn tay là công cụ cụ thể
để hoàn tất những mục đích của con người[12]. Con
mắt chính là đèn của thân thể, nếu mắt tốt khỏe thì toàn thân sẽ
sáng, còn mắt xấu thì toàn thân sẽ tối (x. Mt 6,22-23; Lc 11,34). Người Việt
Nam cũng hay nói rằng “con mắt là cửa sổ của tâm hồn con người”. Sách Huấn Ca dạy
rằng: “Chớ nhìn người trinh nữ một cách chăm chú kẻo ngươi bị sa ngã và gánh lấy
án tử vì nàng” (Hc 9,5). Đức Giêsu cũng dạy rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm
muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Đó là những sa
ngã đến từ con mắt. Người Việt Nam liên hệ bàn tay với thói ăn cắp “ăn cắp quen
tay”. Trong tài liệu của các Rabbi Do Thái gọi là Babylon Talmud (b. Nid.
13a-b, tk.III-VI CE), cớ sa ngã “bàn tay” được hiểu như là tật thủ dâm của đàn
ông.[13] Giải pháp để tránh những cớ vấp ngã này rất
nặng nề và ghê rợn: Chặt bàn tay, chặt bàn chân, món con mắt. Thế nhưng, những
chọn lựa này lại tốt hơn là để cho những bộ phận này làm cớ cho một người vấp
ngã. Lý do những vấp ngã nghiêm trọng có thể dẫn đến mất sự sống đời đời. Còn mất
một phần thân thể, mà tránh được vấp ngã thì sẽ được đi vào sự sống hay đi vào
Nước Thiên Chúa. Mục đích tối hậu là sự sống và Nước Thiên Chúa. Dĩ nhiên ai
cũng muốn vẹn cả đôi bề: Muốn vào sự sống và Nước Thiên Chúa với một thân thể
lành lặn. Tuy nhiên, nhiều lúc người ta phải chọn lựa, hy sinh để đi đến một kết
cục cao đẹp.
Phải hiểu thế nào về các mệnh lệnh như chặt bàn
tay, chặt bàn chân và móc mắt? Các nhà chú giải ngày nay có trích dẫn hình phạt
chặt tay trong Cựu Ước (Đnl 21,11-12) hay móc mắt (Xh 21,23-25; Lv 24,20; Đnl
19,21) nhưng cũng không quên kèm theo cách hiểu theo nghĩa ẩn dụ của các tác giả
Do Thái thời sơ khai (Philo Special Laws, 3.179; Các rabbi, Babilon Talmud, b.B. Qam. 83b-84a).[14] Cũng
rất hợp lý khi hiểu theo nghĩa đen những mệnh lệnh này. Xét về tâm linh, nếu
người ta muốn vào sự sống, vào Nước Thiên Chúa, là nơi ở tốt nhất thì nếu có phải
đánh đổi một hay vài phần thân thể liệu nào có xá gì? Các thánh tử đạo đã chẳng
sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình, để làm chứng cho niềm tin của mình đó sao? Mạng
sống mà người ta còn hy sinh được huống hồ một phần thân thể? Trong truyền thống Do Thái, chúng ta cũng tìm gặp được một tinh thần đáng
thán phục của bà mẹ có bẩy người con bị giết trong một ngày: “Bà mẹ là người rất
mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai
phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông
cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một,
lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ,
nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: Mẹ không rõ các con
đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự
sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính
Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn
loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự
sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2 Mcb
7,20-23). Xét về ý nghĩa thể
lý, người ta chẳng phải hy sinh một cái tay, cái chân, con mắt, bộ ngực để chữa
trị những căn bệnh ung thư đó sao? Đó chẳng phải là hy sinh một phần thân thể để
cứu mạng sống đó sao? Nhưng mà nếu làm thế, thì chắc là hầu hết các Kitô hữu
tàn tật về mặt thể lý hết. Có người cụt tay, có người cụt chân, có người mất mắt…
các giáo xứ sẽ trở thành nhà khuyết tật hết. Ngày này người ta đề cao ý chí, lý
trí và tự do của con người nhiều hơn. Những hình thức tu khổ hạnh như là “đánh
tội” ngày xưa đã bị Giáo Hội cấm đoán từ lâu. Những người khấn đời sống khiết tịnh
trong đời tu không phải là những hoạn nhân, nhưng phải có sức khỏe hết sức bình
thường. Nếu là hoạn nhân thì chẳng cần khấn đức khiết tịnh, vì có khả năng làm
chuyện ấy đâu mà khấn làm gì.[15] Mỗi
người phải dùng lý trí để phân định những điều đúng sai và phải dùng tự do để
chọn lựa điều tốt và dùng ý chí để dứt khoát với tội lỗi của mình. Các tín hữu
phải ý thức rõ nguy hại của sự sa ngã để làm hết sức mình, một cách liên lỉ để
vượt thắng nó. Sự vượt thắng những thói quen xấu đòi hỏi những hy sinh và can đảm
dứt khoát.[16]
Thánh Phanxicô được cho là đã lăn vào cụm
hoa hồng có gai trong cơn cám dỗ xác thịt của người. Vì vậy, ngày nay trong
khuôn viên dòng tu nơi ngài đã sống trước đây có một vườn hoa hồng không có
gai.
6.
Gheenna (địa ngục): Thường
được chuyển ngữ qua các ngôn ngữ hiện đại như là “địa ngục”, “hỏa ngục”. Thực
ra, Gheenna là chuyển tự tiếng Hy Lạp từ tiếng Aram (גי הנם) (ghe-himnom:
Thung lũng Hinnom). Thung lũng này được đồng hóa với “một vòng sâu và rộng mang
tên Wadi er-Ranabeh quanh thành cổ Jêrusalem về phía Nam và phía Tây. Thung
lũng trở thành biểu tượng tiêu cực, vì những vị vua của Giuđa (vd. Akhát và Manasse
– tham gia vào việc sát tế trẻ em cho thần Môléc tại đó (2 Sbn 28,3; 33,6). Khi
vua Giôsia (640-609) làm cuộc cải cách tôn giáo, ông đã cho phá hủy các đền thờ
thần ngoại trong đó có đền thờ thần Môléc (2 V 16,3; 21,6; 23,10). Nơi này trở
thành nơi trừng phạt bắt đầu từ thời ngôn sứ Jêrêmia, người đã đổi tên nó thành
“thung lũng tàn sát” và đã dự báo rằng nó sẽ được lấp đầy bởi những xác chết,
trở thành mồi cho chim trời và giã thú suốt thời Jêrusalem bị phá hủy (Gr
7,30-34; 19,1-13).[17]
7.
Sự sống - Nước Thiên Chúa: Nước Thiên Chúa là một chủ đề rất quan trọng trong giáo huấn
của Đức Giêsu. Có thể nói đây là chủ đề trung tâm của giáo
huấn Đức Giêsu. Chủ đề này được Đức Giêsu giới thiệu ngay từ lời rao
giảng đầu tiên của Đức Giêsu: “Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần, anh
chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Đó là nơi chốn mà các môn đệ
phải tìm kiếm trước hết (Mt 6,3: Trước hết phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự
công chính của Người). Đức Giêsu dùng rất nhiều dụ ngôn để giải nghĩa về Nước
Thiên Chúa: “Người gieo giống” (Mc 4,1-9; 13-20); “Hạt giống tự mọc lên và sinh
hoa trái” (Mc 4,26-29); “Cây cải” (Mc 4,30-32). Trong bối cảnh gần câu chuyện
này nhất, Đức Giêsu tuyên bố Nước Thiên Chúa là của những ai giống như những đứa
trẻ (Mc 10,14-15; Lc 18,16). Mục đích của Đức Giêsu được sai đi là “loan báo
Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành” (Lc 4,43; Mt 9,35). Các môn đệ cũng
chung sứ vụ rao giảng Nước Thiên Chúa như Đức Giêsu vậy (Lc 9,2). Trong bài giảng
về các mối phúc, có hai lần phần thưởng Nước Trời[18]
được Đức Giêsu nói đến:(i) Cho những người có tinh thần nghèo khó (Mt 5,3);
(ii) Cho những người bị bách hại vì sống công chính (Mt 5,10). Sự công chính của
các môn đệ phải vượt trên sự công chính của các kinh sư và Pharisêu thì mới
vươn tới Nước Trời (Mt 5,20).
Phần thưởng “đi vào Nước Thiên Chúa” song song hoặc
giao thoa với “đi vào sự sống”. Cụm động từ “đi vào sự sống” (εἰσελθεῖν εἰς τὴν ζωὴν) được dùng 2 lần (9,43.45)
trong khi đó “đi vào Nước Thiên Chúa” (εἰς τὴν βασιλείαν) được dùng một lần (9,47). “Đi vào sự sống” được dùng với cớ vấp phạm là
bàn tay và bàn chân; “Đi vào Nước Thiên Chúa” gắn với cớ vấp phạm con mắt. Cả
hai cụm từ đều được nhắm đến như một mục tiêu tốt đẹp mà một người phải đạt
được ngay cả khi phải hy sinh một phần thân thể để tránh đi cớ vấp phạm. Nước
Trời là cùng đích cuối cùng của một con người và sự sống cũng vậy. “Sự sống” ở
đây có thể là cách nói ngắn gọn của sự sống vĩnh cửu. Chỉ có sự sống ấy mới
đáng để cho người ta đánh đổi, ngay cả những phần thân thể của mình. “Sự sống
đời đời” là ao ước cả đời của mỗi người: “Thưa Thầy! Tôi phải làm gì để được sự
sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17; Mt 19,16; Lc 18,18). Đó cũng là phần
thưởng hậu hĩ nhất Đức Giêsu hứa cho những ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha
mẹ, con cái, hay ruộng đất vì danh Người (Mt 19,29; Mc 10,30 và Lc 18,30 còn
thêm chữ “đời sau”); là phần thưởng dành cho những người công chính trong cuộc
phán xét cuối cùng (Mt 25,46). Đó có thể chỉ là hai cách dùng khác nhau để diễn
tả cùng một thực tại của phận người. Nước Thiên Chúa chỉ một nơi chốn nơi có
Chúa là cha hiện diện và “đi vào sự sống” là sống vĩnh cửu, hạnh phúc với Chúa.[19]
Có thể hiểu là “đi vào Nước Thiên Chúa và sống sống vĩnh cửu với Chúa trong
Nước của Người. Thực tại này đối nghịch lại với hình phạt khủng khiếp là “đi
vào Gheenna” (9,42) hay “đi xuống biển” (9, 43.45.46) là nơi lửa không hề tắt
và dòi bọ không hề chết (9,48). Đây là lối diễn tả cho hình phạt đời đời, đối
lại với sự sống đời đời. Cụm giới từ “vào trong Gheenna” được lặp lại 3 lần như
một điệp khúc rùng rợn khiến cho những độc giả yếu tim phải rợn tóc gáy. Động
từ “ballo” (βάλλω, ném, quăng: Ném xuống biển, ném vào Gheenna),
được dùng 3 lần làm cho hình phạt càng tăng thêm sự nặng nề đáng sợ.
Bình Luận Tổng Quát
Đức Giêsu
đang dạy các môn đệ một bài học về sự đón nhận. Đón nhận người bé mọn nhất là
đón nhận Người, đón nhận Người là đón nhận Đấng đã sai Người. Các môn đệ dường
như vẫn cảm thấy khó đón nhận một người khác, một người đang trừ quỷ nhân danh
Đức Giêsu. Họ vừa được dạy là đón nhận một em nhỏ nhân dành Người là đón nhận
Người (Mc 9,37). Như vậy, trừ quỷ nhân danh Người chẳng phải là làm vì Người đó
sao, mà làm vì Người là làm vì Chúa Cha. Có lẽ, họ vẫn muốn quyền trừ quỷ phải
là quyền dành riêng cho họ, những người được Chúa chọn. Trong thế giới dân
ngoại, có biết bao nhiêu người làm những việc tốt lành vì danh Chúa, liệu họ
cũng muốn cấm đoán hết hay sao? Nhóm nhỏ của họ sẽ bao việc hết hay sao? Môsê
đã từng nhắc nhở môn đệ Giôsuê cũng vì ghen thay cho thầy khi thấy những người
không thuộc nhóm 72 kỳ mục cũng nói tiên tri. Đức Giêsu còn nhấn mạnh thêm, ai
cho anh em uống một cốc nước, vì lẽ anh em thuộc về Đức Kitô thì phần thưởng
dành cho người ấy sẽ không bị hư mất. Vấn đề không phải là thuộc nhóm này hay
nhóm kia nhưng là có làm vì danh Đức Kitô hay không. Những việc tốt lành vì
danh Chúa sẽ nối kết mọi người xa lạ lại với nhau. Thánh Phaolô đã từng nhắc
nhở các tín hữu thành Côrintô về sự “ghen tương, cãi cọ” (1Cr 3,3), khi họ nói
rằng: “Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi thuộc về Kêpha, tôi thuộc
về Đức Kitô” (1 Cr 1,12). Thánh Phaolô cho rằng thái độ đó làm cho Đức Kitô bị
chia năm sẻ bảy rồi (1Cr 1,13). Sự chia rẽ không được nhấn mạnh ở đây nhưng sự
bao gồm và đón nhận và đừng xem mình như là những người tốt nhất cho sứ vụ là
những điều đáng phải lưu tâm. Trong đại dịch Covid tại TpHCM người ta đang cảm
thấy an ủi, ngưỡng mộ vì hình ảnh những tu sĩ Phật Giáo, Tin Lành, và Công Giáo
đã kề vai sát cánh bênh nhau trong các Bệnh viện hồi sức cho bệnh nhân Covid.
Có thể nói rằng chỉ có virus Covid mới quy tụ, nối kết họ lại một cách quy mô
và rầm rộ như vậy, bởi xưa nay mỗi nhóm vẫn làm nhiệm vụ yêu thương một cách
riêng rẽ. Các tín hữu Kitô liệu có thể than trách, cấm đoán các tín hữu khác vì
họ không thuộc nhóm của họ, không cùng đức tin với họ hay không?
Một cốc
nước và phần thưởng đời đời. Cho người khác uống một cốc nước chỉ là hành động
xã giao, lịch sự thường ngày, nhưng lại được phần thưởng vĩnh cửu. Từ một điều
bình dị vươn đến một hiệu quả phi thường. Điều gì đã làm nên sự phi thường đó?
Thưa! Đó chính là cầu nối Đức Kitô. Mọi hành động bình thường nếu được làm vì
danh Đức Kitô thì đều trở nên phi thường và đáng được nhận phần thưởng cao quý.
Đức Giêsu vừa giúp các môn đệ trân trọng những hành vi bình thường đôi khi
chẳng đáng để ý phát xuất từ tấm lòng của người khác, vừa giúp cho các tin hữu
để tâm mình vào mỗi hành động thường ngày trong cuộc sống, mời Đức Kitô hiện
diện trong từng hành động nhỏ bé của mình. Có Đức Kitô thì mọi hành động sẽ trở
nên lớn lao.
Trong
đời sống cộng đồng có người mạnh người yếu về đức tin. Làm cớ cho người khác
vấp ngã và phạm tội là một điều rất hệ trọng. Nó được xem là nặng nề hơn là một
cái chết thê thảm như là buộc miếng trên của cối đá mà ném xuống biển sâu. Cám
dỗ người khác phạm tội lại là một hành động đáng bị hình phạt tử hình. Chúa Giêsu
dùng hình ảnh một hình phạt nặng nề ấy, để giúp các môn đệ để tâm đến cách sống
và cách hành động của mình, để không bao giờ nên cớ phạm tội cho người khác,
nhất là những người “bé mọn” về thể lý, cũng như về đức tin.
Mục tiêu
cuối cùng của con người là đi vào Nước Thiên Chúa, nước Thiên Đàng mà Đức Giêsu
đã giới thiệu ngay từ lời đầu tiên của sứ vụ công khai (Mc 1,15: Thời kỳ đã
mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần, anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng).
Ai cũng có ba món quà quý giá: Một lý trí để phân định tốt, xấu, đúng, sai; Một
sự tự do để chọn lựa điều tốt; Và một ý chí để kiên trình hành động đúng. Những
cớ vấp ngã có thể đến từ những bàn tay, bàn chân, con mắt, đôi tai… nói chung
là một phần nào đó của thân thể con người. Những cớ vấp ngã đó làm cho người ta
phạm tội, tách lìa khỏi Thiên Chúa là nguồn sự sống. Mỗi cá nhân phải ý thức
cách rõ ràng và có thái độ dứt khoát, hành động mạnh mẽ để dứt bỏ những thói hư
tật xấu của mình. Những quyết tâm đó đôi lúc đòi hỏi sự hy sinh đau đón như mất
một phần thân thể vậy. Cách nói của Đức Giêsu như “cắt” (chân, tay), “móc”
(mắt), “ném” (vào Gheenna) làm cho các tín hữu thấy được sự nặng nề của tội lỗi
mà xa tránh. Chỉ nên hiểu những hình ảnh ấy theo nghĩa ẩn dụ chứ không theo
nghĩa đen. Chiến đấu liên lỷ với cám dỗ của mình là hoạt động liên lỉ, từng
phút giây trong cả cuộc đời. Giả như người ta bị hoạn rồi thì đức khiết tịnh
nào có giá trị gì? Giả như người ta không khoái cảm về ăn uống thì ăn chay có ý
nghĩa gì đâu?
Lm.
Joseph Phạm Duy Thạch, SVD.
[1] According to J. Marcus,
the reason why people do something “in the name of” someone is “because of the
ancient association of the name of a person or thing with its presence or
power, “in the name of” can mean “in the power of” (see 11:9; 13:13; cf. Ps 54:1;
Acts 4:7) or “for the sake of” (see 9:37, 41) [J. Marcus,
Mark 8–16. A New Translation with
Introduction and Commentary
(AYB; New Haven – London 2008) XXVII A, 684].
[2] J. Marcus hiểu rằng “không
theo chúng ta” nghĩa là không phải ki-tô hữu (J. Marcus, 684). Tuy nhiên, thời
Đức Giê-su có vẻ danh xưng ki-tô hữu chưa rõ ràng cho lắm. Vì thế, tốt hơn nên
hiểu là theo nhóm các môn đệ.
[3] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 686.
[4] “According to Bultmann, v.
41 originally followed upon v. 37 and they “belong together.” He also concluded
that v. 41 originally spoke about “children” (παιδία) rather than “you” (ὑμεῖς), just as Matt 10:40 originally spoke about “little ones” (μικροί), like 10:42, rather than
“you” (ὑμεῖς). The changes
were made to make the saying applicable to the early church. Therefore, in his
view, v. 41, like v. 37, is a saying about kindness to children that comes from
Jewish tradition [A.Y. Collins – H.W.
Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 449].
[5] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 688.
[6] F. Blass – A. Debrunner, A
Greek Grammar of the New Testament and Other Early Christian Literature
(Chicago 1961) 188.
[7] A Greek-English Lexicon of
the New Testament and Other Early Christian Literature (ed. W. Arndt et al.)
(Chicago 2000) 926.
[8] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 689.
[9] R.T. France, The Gospel Of Mark. A Commentary on The Greek Text (NIGTC; Grand
Rapids 2002) 380; C.A. Evans, Mark 8:27-16:20 (WBC; Dallas 2002) 34B,
70.
[10] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 450.
[11] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 689.
[12] Ibid.
[13] A.Y. Collins – H.W. Attridge,
Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark, 451.
[14] J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary, 690.
[15] Giáo phụ Origen (184-253
CE, cùng thời với giáo phụ Tertuliano), là một giáo phụ nổi tiếng thông minh,
hiểu biết, lỗi lạc và có lối sống khổ hạnh. Ông được cho là đã thực lời dạy của
Đức Giê-su liên quan đến “hoạn vì Nước Trời” theo nghĩa đen. Có lẽ vì thế mà
ông không được Giáo hội tuyên thánh. (x. Eusebio, History of the Church,
6.8.1,2,3 (bản dịch từ tiếng Hy Lạp qua tiếng Latin của Rufunus of
Aquileia, bản dịch từ Latin qua tiếng Anh của P.R. Amidon, Washington, 2016)
243].
[16] It means
that it may be necessary to excise some habit, to abandon some pleasure, to
give up some friendship, to cut out some thing which has become very dear to
us, in order to be fully obedient to the will of God. This is not a matter with
which anyone can deal for anyone else. It is solely a matter of a man’s
individual conscience, and it means that, if there is anything in our lives
which is coming between us and a perfect obedience to the will of God, however
much habit and custom may have made it part of our lives, it must be rooted
out. The rooting out may be as painful as a surgical operation, it may seem
like cutting out part of our own body, but if we are to know real life,
real happiness and real peace it must go [W. Barlcay, The Gospel of Mark (DSB; Philadelphia
2000, c1975) 232].
[18] Thánh Mát-thêu hay dùng Nước Trời thay vì Nước Thiên
Chúa như Mác-cô và Luca.
[19] The expression "enter into life" in vv. 43
and 45 is replaced by "enter into the kingdom of God" in v. 47, thus
suggesting an equivalency or at least a parallelism. [J.R. Donahue – D.J. Harrington, The
Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 287].
No comments:
Post a Comment