CHIA TAY HAY TIẾP TỤC? Chú giải Tin Mừng CN XXI TN B (Ga 6,60-69)
Bản văn và chuyển ngữ sát nghĩa
Hy Lạp | Việt |
60 Πολλοὶ οὖν ἀκούσαντες ἐκ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ εἶπαν· σκληρός ἐστιν ὁ λόγος οὗτος· τίς δύναται αὐτοῦ ἀκούειν; 61 εἰδὼς δὲ ὁ Ἰησοῦς ἐν ἑαυτῷ ὅτι γογγύζουσιν περὶ τούτου οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ εἶπεν αὐτοῖς· τοῦτο ὑμᾶς σκανδαλίζει; 62 ἐὰν οὖν θεωρῆτε τὸν υἱὸν τοῦ ἀνθρώπου ἀναβαίνοντα ὅπου ἦν τὸ πρότερον; 63 τὸ πνεῦμά ἐστιν τὸ ζῳοποιοῦν, ἡ σὰρξ οὐκ ὠφελεῖ οὐδέν· τὰ ῥήματα ἃ ἐγὼ λελάληκα ὑμῖν πνεῦμά ἐστιν καὶ ζωή ἐστιν. 64 ἀλλ᾽ εἰσὶν ἐξ ὑμῶν τινες οἳ οὐ πιστεύουσιν. ᾔδει γὰρ ἐξ ἀρχῆς ὁ Ἰησοῦς τίνες εἰσὶν οἱ μὴ πιστεύοντες καὶ τίς ἐστιν ὁ παραδώσων αὐτόν. 65 καὶ ἔλεγεν· διὰ τοῦτο εἴρηκα ὑμῖν ὅτι οὐδεὶς δύναται ἐλθεῖν πρός με ἐὰν μὴ ᾖ δεδομένον αὐτῷ ἐκ τοῦ πατρός. 66 Ἐκ τούτου πολλοὶ [ἐκ] τῶν μαθητῶν αὐτοῦ ἀπῆλθον εἰς τὰ ὀπίσω καὶ οὐκέτι μετ᾽ αὐτοῦ περιεπάτουν. 67 εἶπεν οὖν ὁ Ἰησοῦς τοῖς δώδεκα· μὴ καὶ ὑμεῖς θέλετε ὑπάγειν; 68 ἀπεκρίθη αὐτῷ Σίμων Πέτρος· κύριε, πρὸς τίνα ἀπελευσόμεθα; ῥήματα ζωῆς αἰωνίου ἔχεις, 69 καὶ ἡμεῖς πεπιστεύκαμεν καὶ ἐγνώκαμεν ὅτι σὺ εἶ ὁ ἅγιος τοῦ θεοῦ. (Jn. 6:60-69 BGT) | 60 Rồi sau khi nghe, nhiều người trong các môn đệ của Người nói rằng: “Lời này khó nghe quá, ai có thể nghe nó?” 61 và khi Đức Giêsu biết trong mình rằng các môn đệ của Người này lẩm bẩm phàn nàn về điều ấy, Người nói cùng họ: “Điều đó gây vấp ngã cho anh em hả? 62 vậy thì, nếu anh em thấy Con Người đi lên nơi Người đã ở trước kia thì sao? 63 Pnêuma mới là cái làm cho sống, xác thịt không mang lại ích gì. Những lời mà Thầy đã nói với anh em là Pnêuma và sự sống. 64 nhưng vài người trong anh em đã không tin vì Đức Giêsu biết ngay từ đầu những người không tin và ai là kẻ nộp Người. 65 Và Người nói: Vì thế Thầy đã nói cùng anh em rằng không ai có thể đến với Thầy ngoại trừ người được Cha ban cho. 66 Từ đó, nhiều người trong số môn đệ của Người đi ra đằng sau, và không còn bước đi với Người nữa. 67 rồi Đức Giêsu nói cùng nhóm Mười Hai: “Anh em không muốn bỏ đi đấy chứ?” 68 Simon Phêrô trả lời Người: “Thưa Thầy, chúng tôi sẽ đến với ai? Thầy mới có lời của sự sống đời đời”. 69 Chúng con đã tin và biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa. |
Bối cảnh bản văn
Bản văn Ga
6,60-69 là đoạn cuối cùng trong diễn từ Bánh Hằng Sống (Ga 6,22-69). Danh từ “lời
này” (Lời này khó nghe quá) với mạo từ xác định nối kết với những lời mà Đức
Giêsu nói trước đó trong Ga 6,52-59 đặc biệt là những nhấn mạnh liên quan đến lời
mời gọi “ăn thịt” và “uống máu” của Đức Giêsu (6,53.54.55.56). Những
“lời” này đã dẫn đến phản ứng của nhiều môn đệ. Động từ “xầm xì phản đối”
(γογγύζω) (6,61) nhắc nhớ
đến sự xầm xì phản đối của những Người Do Thái dành cho Đức Giêsu (6,41.44.47.50.51.54.58)
khi Người mạc khải nguồn gốc từ trời của mình. Chủ đề Pnêuma (tinh thần) gợi nhớ
đến cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô trong đó Đức Giêsu cũng nói về
Thần Khí và tinh thần (Ga 3,6: Cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí; cái bởi
xác thịt sinh ra là xác thịt). Trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari (Ga
4), Đức Giêsu cũng nói đến việc đã đến lúc người ta thờ Chúa trong “thần khí và
sự thật”, bởi vì “Thiên Chúa là thần khí” (4,24). Chủ đề về Thần Khí sẽ trải
dài trong Tin Mừng Gioan (7,39; 14,17; 15,26; 16,13; 19,30). Cách nói “lên
nơi đã ở trước kia” liên kết với nguồn gốc “từ trời” đã được nói đến
trong suốt “Diễn Từ Bánh Hằng Sống” (6,32.33.41.42.50.51.58). Nguồn gốc “từ trời”
của Đức Giêsu cũng đã được nói đến trong 3,13 và 3,31. Trong đoạn này, Đức Giêsu
cũng nhắc lại thẩm quyền của Chúa Cha trong việc ban ơn cho ai đến với Đức
Giêsu (6,65), đã được nói đến trong (Ga 6,44: Chẳng ai có thể đến được với tôi,
nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy). Chủ đề “sự sống đời
đời” (6,68: Thầy có lời ban sự sống đời đời) đã được nói đến trong suốt Diễn
Từ này (6,27.40), và được nhắc đến ở đoạn này như là một sự kết thúc của Diễn Từ.
Chủ đề “tin” (6,69: “Chúng con đã tin”; 6,64: Có những kẻ không tin) đã
được nói đến như là một điều kiện quan trọng nhất để có sự sống đời đời (6,47:
“Ai tin thì có sự sống đời đời”). Mục đích của toàn bộ Tin Mừng là để cho độc
giả “tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà có sự sống
nhờ danh Người” (20,31). Ngược lại với “những người tin” là những “kẻ không
tin”. “Những kẻ không tin thì bị lên án
rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18). Đức Giêsu cũng
đã tuyên bố cách long trọng ở một nơi khác: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã
sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào
cõi sống” (Ga 5,24). Chủ đề “kẻ nộp Con Người” nhắc nhớ đến Juđa và hành
động nộp Thầy của ông (Ga 13,2.21; 18,2.5; Cf. Mc 14,42.44; Mt 26,46.48). Juđa
cũng được đề cập đến như là quỷ (διάβολός) ở cuối đoạn này: “Một
người trong anh em là quỷ” (Ga 6,70). Trong trình thuật “Rửa Chân” cho các môn
đệ, Đức Giêsu lại nhắc đến Juđa như là người “không sạch” ám chỉ đến hành động
“nộp” Người. Danh xưng “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6,69) gợi nhớ đến lời
của tà thần ô uế: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
(Mc 1,24; Lc 4,34). Thiên sứ Gápriel cũng tiền báo Đức Giêsu là “Đấng Thánh sắp
sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Trong bài giảng cho người Do
Thái, Phêrô cũng gọi Đức Giêsu là “Đấng Thánh và Đấng Công Chính” (Cv 3,14).
Cấu Trúc
Có thể chia đoạn văn này thành hai phần ứng với hai phản ứng trái ngược nhau của hai nhóm người. Phần I là phản ứng của nhiều môn đệ. Phần II là đáp trả của Nhóm Mười Hai qua lời của Phêrô. Phần I bao gồm 3 cặp tiểu phần song song với nhau: (A) Lời này khó nghe dẫn đến sự vấp ngã // đành động cuối cùng là rút lui, không đi chung với Đức Giêsu nữa; (B) Không thể đón nhận chân lý: Con người lên nơi đã ở trước đây // (B’) Không tin – nộp Người – không đến được với Đức Giêsu; (C) Thần khí làm cho sống, xác thịt thì vô ích // (C’) Lời của Đức Giêsu là sinh khí và sự sống. Phần II bao gồm câu hỏi của Đức Giêsu (A) và phần đáp trả có tính xác tín của Nhóm Mười Hai (B).
I. Phản
ứng của nhóm các môn đệ: Vấp ngã – Không tin – Rút lui (A)
Lời này khó nghe – gây vấp ngã (6,60-61a) (B) Không thể đón
nhận: Con Người lên nơi đã ở trước đây
(6,61b). (C)
Sinh khí mới là điều làm cho sống - xác thịt vô ích
(6,62) (C’)
Lời Đức Giêsu: sinh khí và sự sống (6,63) (B’) Không tin – nộp
- không đến được với Đức Giêsu (64-65)
(A’)
Rút lui – không còn đi chung (6,66) II. Phản
ứng của nhóm Mười Hai (6,67-69) Tin và biết Thầy là Đấng Thánh. A. Câu
hỏi của Đức Giêsu: Không phải anh em cũng muốn rút lui chứ? (6,67) B. Đáp
trả: Thầy có lời của sự sống đời đời (6,68) Tin
và biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa (6,69) |
Một số điểm chú giải
1. “Các
môn đệ”: Trong bối cảnh này, nhóm “các môn đệ” được phân biệt với Nhóm
Mười Hai. Tuy nhiên, các thành viên của Nhóm Mười Hai cũng được gọi là “các
môn đệ” (Ga 6,8: Một trong các môn đệ là ông Anrê, thưa với Người; Ga 6,71:
Juđa con ông Simôn Íscariốt, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai). Nhóm các
môn đệ ở đây có lẽ là lớn hơn Nhóm Mười Hai. Luca có nhắc đến một nhóm 72
môn đệ được Đức Giêsu chỉ định và sai đi “từng hai người một” và họ đã trở
về hớn hở khi thấy ma quỷ khuất phục trước danh của Đức Giêsu (Lc 10,1.17).
Gioan không nhắc đến nhóm 72 môn đệ này. Đối với ông, môn đệ là chỉ chung cho tất
cả những ai đi theo và học hỏi với Đức Giêsu. “Môn đệ” trong tiếng Hy Lạp
là “người học hỏi”, “người học trò”. Cũng như các môn đệ Gioan Tẩy Giả, họ đi
theo và học hỏi với ông một thời gian, rồi một vái người trong số họ đã theo Đức
Giêsu, khi được Gioan giới thiệu (Anrê là một ví dụ). Một “môn đệ” đúng nghĩa
là người “ở lại trong lời” của Đức Giêsu (Ga 8,31). Đặc điểm nhận dạng các môn
đệ của Đức Giêsu là tình yêu mà họ dành cho nhau: “Mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Khuôn
mẫu chuẩn của người môn đệ trong Tin Mừng thứ tư chính là “Người môn đệ được Đức
Giêsu thương mến”. Người duy nhất đã ở trong lòng Đức Giêsu trong Bữa Tiệc Ly
(Ga 13,23). Ông cũng là môn đệ duy nhất hiện diện dưới chân thập giá Chúa và đã
được Đức Giêsu nói lời di chúc: “Đây là con của Mẹ…Đây là Mẹ của con” (Ga
19,26-27). Người môn đệ duy nhất đã thấy ngôi mộ trống và đã tin cũng chính là
ông (Ga 20,8). Nhóm môn đệ này đã cuối cùng đã rút lui, vì họ không chấp nhận
“lời” của Đức Giêsu.
2. “Nhóm
Mười Hai”: “Nhóm Mười Hai”[1] được
nhắc đến trong Tin Mừng thứ tư tất cả 4 lần. Trong 4 lần đó thì có đến 3 lần được
nằm trong đoạn văn này (6,67.70.71). Khác với Tin Mừng Nhất Lãm. Tin Mừng thứ
tư không ghi lại sự kiện Đức Giêsu lập Nhóm Mười Hai cũng như không có một
danh sách Nhóm Mười Hai trọn vẹn. Có một lần duy nhất tác giả liệt kê tên các
Tông Đồ, nhưng cũng không đầy đủ (Ga 21,2: Ông Simôn, ông Thôma gọi là ĐiĐymô,
Ông Nathanael người Cana miền Galilê, các con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa).
Tên Nathanael là tên mà Gioan gọi khác với tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, nơi thường
gọi ông này là Batôlômeô. Cách mà Gioan tường thuật Đức Giêsu gọi bốn môn đệ đầu
tiên cũng khác so với Tin Mừng Nhất Lãm. Theo các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, Đức
Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên là 2 cặp anh em ruột: Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan
(Mc 1,16-20; Mt 4, 18-22; Lc 5,1-11). Theo tác giả Tin Mừng thứ tư, Anrê là một
trong hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả, những người đã đến xem và ở lại với Đức Giêsu
(Ga 1,37-39). Sau đó, ông giới thiệu với em mình là Simôn. Đức Giêsu đã “nhìn
ông Simôn” và đổi tên ông thành Kê-pha nghĩa (Phêrô) (Ga 1,42). Rồi, Đức Giêsu
gọi riêng ông Philípphê, người cùng quê với Simôn và Anrê (Bết-sai-đa) (Ga
1,43-44). Ông Philípphê lại giới thiệu về Đức Giêsu cho ông Nathanael, nhưng
ông này tỏ vẻ khinh thường vì nguồn gốc Nadarét của Đức Giêsu. Tuy nhiên, khi Đức
Giêsu gặp ông và nói chuyện với ông, thì ông đã được biến đổi và tuyên xưng rằng:
“Lạy Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Israel”
(Ga 1,49). Như vậy, bốn môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu gọi trong Tin Mừng Gioan
không giống với bốn môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Nhất Lãm (Anrê, Simôn, Philípphê,
và Nathanael). Chính Tác giả Gioan cũng không bao giờ dùng danh xưng Tông Đồ
để gọi thành viên của Nhóm Mười Hai. Ông chỉ gọi họ là các môn đệ (μαθητής). Như
đã nói trên, môn đệ trong tiếng Hy Lạp là “học trò”, “người học”, “sinh viên”.[2]
Tin Mừng Nhất Lãm gọi thành viên nhóm Mười Hai là các “Tông đồ” (ἀπόστολος) trong tiếng Hy Lạp là “sứ giả”, “người được
sai đi”. Luca nói rõ là Đức Giêsu đã tuyển chọn mười hai ông giữa nhóm các môn
đệ và gọi họ là “các Tông Đồ” (Lc 6,13). Tác giả Máccô nêu rõ mục đích Đức Giêsu
lập Nhóm Mười Hai là để họ ở với Người và Người sai các ông đi rao giảng,
với quyền trừ quỷ (Mc 3,14). Quả thật, trong Tin Mừng Nhất Lãm, có trình thuật
về việc Đức Giêsu sai các Tông Đồ đi rao giảng (Mc 6,1-13; Mt 10,5-15; Lc
9,1-6). Trong Tin Mừng Gioan, sứ vụ sai đi được “cất dành” cho đến sau
khi Đức Giêsu Phục Sinh: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga
20,21). Theo Gioan, trong thời hoạt động công khai của Đức Giêsu, các môn đệ, kể
cả Nhóm Mười Hai đi bên cạnh Đức Giêsu như những “người học trò”, “người sinh
viên”. Trong Diễn Từ Bánh Hằng sống, nơi mà Nhóm Mười Hai được nhắc đến nhiều
nhất trong Tin Mừng Gioan, nhóm này được Đức Giêsu nhắc đến như nhóm được chọn.
Trong nhóm này, có nhiều người đã tin vào Đức Giêsu nhưng cũng có kẻ đã nộp Người.
Đừng quên, trong Cuộc Thương Khó, chính Phêrô cũng đã từ chối thân phận môn đệ
của mình trước mặt một người phụ nữ (Ga 18,17.25), còn các môn đệ khác thì bỏ
chạy hết, trừ một mình “người môn đệ Đức Giêsu yêu mến”.
Hình ảnh Đức Giêsu
quay qua hỏi Nhóm Mười Hai sau khi hầu hết mọi người, kể cả nhiều môn đệ đã
quay lưng với Người, gợi nhớ đến câu chuyện Đức Giêsu chất vấn Nhóm Mười Hai về
căn tính của Người: “Người ta bảo Con Người là ai?”. Sau những câu trả lời
mang tính đồn đoán của dân chúng (người cho là Êlia, Giêrêmia, hay một trong
các ngôn sứ), Phêrô, đại diện cho Nhóm Mười Hai đã tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô
(Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21). Như thế, ở đây, Nhóm Mười Hai cũng xuất
hiện như những người tin và hiểu biết về Đức Giêsu hơn hẳn những người khác.
3. “Lời
này” … “những lời mà Thầy đã nói”: Trung tâm của cuộc tranh luận là “lời
này”. “Lời” với mạo từ xác định (ὁ λόγος) diễn tả những điều
đã nói trước đó. Từ đầu “diễn từ Bánh Hằng Sống”, Đức Giêsu đã nói rất nhiều
điều. Tuy nhiên, “lời” làm cho cho nhiều môn đệ phản ứng là những lời
ngay trước đoạn văn này (Ga 6,50-58). Cụ thể là lời mời gọi “ăn thịt và uống
máu” của chính Đức Giêsu (6, 53.54.56). Đây là những “lời” diễn tả cụ thể và sống
động về Bí Tích Thánh Thể. “Lời này” cũng có thể hiểu là những lời mà Đức Giêsu
nói từ đầu Diễn Từ cho đến lúc này.[3] Có
thể là trước đó các môn đệ chưa phản ứng, vì đã có đám đông và những người Do
Thái phản ứng rồi. Bây giờ đến lượt các môn đệ phản ứng. Đó có thể là cách tường
thuật giới hạn đối tượng phản đối cách tiệm tiến của tác giả Tin Mừng: “Đám
đông” – “những người Do Thái” – “Các môn đệ”. Sau đó, Đức Giêsu giải thích cho
họ rằng “những lời” mà Đức Giêsu “đã nói” chính là “sinh khí” và là “sự sống”[4]
nhưng họ vẫn không chấp nhận. Tương tự như “lời này”, “những lời” mà Đức
Giêsu đã nói trong bối cảnh trực tiếp có thể là lời mời gọi “ăn thịt và uống
máu”, có thể cũng là “lời này” mà nhóm môn đệ đang thắc mắc. Tuy nhiên, “những lời”
của Đức Giêsu có thể mở rộng ra toàn bộ những lời trong “Diễn Từ Bánh Hằng Sống”
cũng như toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Những lời này
mang đến cho người nghe và đón nhận “sinh khí và sự sống”. Lời mà Đức Giêsu đã
nói theo nghĩa này phù hợp với “những lời ban sự sống đời đời” mà Phêrô
đã tuyên xưng sau đó: “Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Trong những đoạn trước, độc giả đã có dịp tìm hiểu về “bánh ban sự sống đời
đời”. Đức Giêsu chính là “bánh ban sự sống đời đời” (Ga 6,48). “Bánh ban sự
sống” có thể được hiểu theo hai nghĩa: (i) Bánh Thánh Thể (Mình Máu Chúa); (ii)
Lời khôn ngoan của Đức Giêsu.[5] Cách
hiểu thứ hai được thể hiện rõ trong đoạn này (Ga 6,60-69), cũng là đoạn kết
của Diễn Từ. Bánh ban sự sống đời đời = lời ban sự sống đời đời = Đức Giêsu.
4. Lẩm
bẩm phàn nàn: Động từ diễn tả phản ứng của nhóm “nhiều môn đệ” (γογγύζω: Xầm xì phản đối) giống với động từ mà những người Do Thái phản ứng
khi Đức Giêsu nói về nguồn gốc “từ trời” của Người: “Người Do Thái liền xầm xì
phản đối vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41). Sau đó,
khi Đức Giêsu nói rằng: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế
gian được sống” (Ga 6,51), Người Do Thái lại tiếp tục tranh luận với nhau: “Làm
sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của ông ta được” (6,52). Trong đoạn này
đến lượt các môn đệ “xầm xì phản đối” về lời mời gọi “ăn thịt” và “uống
máu” của Đức Giêsu. Đối tượng tranh luận không còn là những người Do Thái nữa
mà là chính các môn đệ của Đức Giêsu. Như thế, đối tượng tranh luận ngày càng
được mở rộng ra đến những người có tương quan gần với Đức Giêsu hơn. Theo như lời
diễn giải của Đức Giêsu, các môn đệ đã bị vấp ngã vì lời mời gọi của Người (σκανδαλίζω)
(skandalizo). Động từ này chính là nguồn gốc của thuật ngữ “scandal” (vụ bê bối)
ngày nay. Trong tiếng Hy Lạp, nó có nghĩa là “gây vấp ngã/phạm”. Bản dịch Tiếng
Việt là “lấy làm chướng, không chấp nhận được” (CGKPV); “làm cho gai chướng”
(NTT); Bản Anh Ngữ là “take offense at” (ESV); Bản Ý Ngữ: “scandalizza” (CEI);
Bản Pháp Ngữ là “une cause de scandale” (TOB). Họ đã thật sự “vấp ngã” và không
muốn nghe Người nữa.
5. “Đi
lên nơi Người đã ở”: Mệnh đề “nơi Người đã ở” đưa các môn đệ quay
trở lại với chủ đề nguồn gốc “từ trời” đã được những Người Do Thái xầm
xì phản đối trước đó. Người là bánh hằng sống từ trời xuống (6,33.41.50.51).
Người chính là Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến và đã thấy Chúa Cha (6,46). Tác giả
Tin Mừng thứ tư đã mạc khải ngay từ đầu là: “Vào thuở ban đầu đã có Lời, và Lời
hằng ở với Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1). Người cũng là “Con Một,
là Thiên Chúa, Đấng hằng ở trong cung lòng Chúa Cha” (Ga 1,18). Người
thuộc thượng giới (Ga 8,23); “Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13.31). Động
từ “đi lên” (ἀναβαίνω) liên tưởng đến sự thăng thiên của Đức Giêsu: “Đừng
giữ Thầy lại, vì Thầy chưa đi lên cùng Cha… Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là
Cha của anh em, cùng Chúa của Thầy cũng là Chúa của anh em” (Ga 20,17). Đức Giêsu
đã dùng danh xưng “Con Người” để nói về mầu nhiệm “đi lên” tương tự như danh
xưng mà Người đã dùng trong cả 3 lần tiền báo về Cuộc Tử Nạn – Chết – Phục Sinh
(Mc 8,31; 9,31; 10,33). Trong cuộc đối thoại với Nicôđêmô Đức Giêsu cũng dùng
danh xưng này để nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời
xuống” (Ga 3,13). Khoảnh khắc Đức Giêsu bước vào Cuộc Khổ Nạn được xem như là
giờ Đức Giêsu “khởi hành khỏi thế gian về cùng Chúa Cha” (Ga 3,1; Cf. 16,28). Những
chân lý về nguồn gốc “từ trời”, “từ Chúa”, rồi “đi lên cùng Cha” của Đức Giêsu
dường như quá tầm hiểu biết của những môn đệ này. Câu văn của Đức Giêsu chỉ có
mệnh đề “nếu” và thiếu đi mệnh đề “thì” (Nếu anh em nhìn thấy Con Người lên nơi
đã ở trước kia?”). Có 3 giải pháp được đưa ra cho mệnh đề “thì”. (1) (liên kết
với c.61) Thì anh em càng bị vấp ngã hơn (bị shock hơn) hay thì sự vấp ngã của
anh em sẽ được gỡ bỏ; (2) (liên kết với cc.48-50) Thì anh em sẽ hiểu bánh ban sự
sống, bánh đến từ trời; (3) (liên kết với cc. 51-58) Thì anh em sẽ đánh giá “thịt
của tôi” một cách khác đi.[6] Cách hiểu thứ nhất có thể gợi
nhớ đến điều Đức Giêsu nói cùng ông Nicôđêmô: “Nếu tôi nói với các ông những điều
thuộc trái đất mà các ông không tin, thì làm sao các ông có thể tin nếu tôi nói
với các ông những điều trên trời” (3,12).
6. Pnêuma
và sự sống: Có hai từ “Pnêuma được dùng trong 6,63. Hầu hết các bản dịch Anh,
Ý, Pháp, đều chọn dịch chữ Pnêuma thứ nhất viết in hoa (ngụ ý là Ngôi Ba
Thiên Chúa) (Thần Khí là Đấng làm cho sống). Nhóm CGKPV dịch chữ Pnêuma thứ nhất là “thần
khí” (in thường) có vẻ hợp lý vì nó đối lại với xác thịt. Từ Pnêuma
thứ hai được chọn viết in thường “thần khí, hơi thở, gió, khí, sinh khí” (ngụ ý
là một đặc tính thuộc về con người làm cho con người sống): “Lời mà Thầy đã nói
với anh em là thần khí và là sự sống”. Sự sống bên trong của con người được
chia thành hai phần: “Linh hồn” và “tinh thần (thần khí/ sinh khí) (ψυχὴ καὶ πνεῦμα). “πνεῦμα” là phần làm cho cơ thể trở nên sống động
(hơi thở, hay tinh thần sống); hay là “một phần cá tính của con người” (tinh thần)
(đối lại với xác thịt: tinh thần và xác thịt).[7]
“Xuykhê” (ἡ ψυχή) trong tiếng Hy Lạp là linh hồn, sự sống, nguyên lý sống,
“trung tâm của sự sống bên trong con người trong nhiều khía cạnh khác nhau của
nó” như là cảm xúc và cảm giác.[8] Trong thư thứ hai gửi tín hữu
Thessalonia, thánh Phaolô nói đến 3 phần của một con người: Tinh thần (thần
khí), linh hồn, và thể xác (τὸ πνεῦμα καὶ ἡ ψυχὴ καὶ τὸ σῶμα) (1 Tx 5,23:
“Giờ đây nguyện xin Thiên Chúa thánh hóa anh em cách hoàn toàn, và nguyện xin
cho toàn thể tinh thần, linh hồn và thân thể anh em được gìn giữ vẹn toàn,
không gì đáng trách, vào lúc Đức Giêsu Kitô ngự đến”). Các môn đệ thất bại
trong việc đón nhận những lời và những hành động của Đức Giêsu, vì họ đánh giá
nông cạn theo tính xác thịt. Theo Đức Giêsu, “xác thịt nào có ích gì” (6,63b).[9]
7. “Một
số người không tin … kẻ nộp Người”: Chi tiết này khẳng định khả năng hiểu
biết thần linh của Đức Giêsu. Đức Giêsu gọi Juđa là “quỷ”: “Chẳng phải
Thầy đã chọn anh em, Nhóm Mười Hai? Vậy mà một người trong anh em là quỷ” (Ga
6,70). Người thuật chuyện đã ghi chú về câu nói của Đức Giêsu và làm rõ tên của
nhân vật mà Đức Giêsu muốn nói: “Người muốn nói về Juđa, con ông Simôn Íscariốt;
thật thế, chính y, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người” (Ga 6,71). Chi
tiết Đức Giêsu mạc khải về “quỷ” tính trong con người Juđa sẽ được người
thuật chuyện nói rõ khi tường thuật về biến cố “giờ” của Đức Giêsu: “Ma quỷ đã
gieo vào lòng Juđa ý định nộp Người” (Ga 13,2). Đối với tác giả Tin Mừng thứ tứ,
Juđa nộp Đức Giêsu, vì hắn đã bị ma quỷ khống chế và trở thành công cụ của “quỷ”.
Theo Mátthêu, Juđa nộp Đức Giêsu, vì “ba
mươi đồng bạc” (Mt 26,15; 27,3.9). Trong Tin Mừng thứ tư, có nhiều lần người
thuật chuyện gắn liền tên của Juđa với hành động “trao nộp” (Juđa, kẻ nộp
Người) (x. 12,4; 18,2.5). Chính Đức Giêsu cũng cho các môn đệ biết danh phận
của “kẻ nộp” Người trong Bữa Tiệc Ly, khi Người chấm miếng bánh và trao cho Juđa,
con ông Simôn Íscariốt (Ga 13,26). Đây chính là tín hiệu mà Người đã bật mí cho
“Người môn đệ Chúa yêu” về danh tánh “kẻ nộp” Người. Một số người không tin là nhóm các môn đệ đã
“rút lui”, không theo Người nữa.
8. “Không
ai có thể đến với Thầy trừ khi được Chúa Cha ban ơn”: Kiểu nói này có cùng nội dung với kiểu nói Đức
Giêsu đã nói với những người Do Thái trước đó: “Chẳng ai có thể đến được với
tôi nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi không lôi kéo Người ấy” (Ga 6,44). “Lôi
kéo” là những tác động, thu hút, thúc đẩy, chỉ dẫn từ Chúa Cha. Thẩm quyền
đó chắc chắn là của Chúa Cha, nhưng Chúa Cha không hạn chế ban ơn cho tất cả
mọi người, lôi kéo mọi người đến với Đức Giêsu. Quyền tự do chọn lựa là thuộc
về mỗi cá nhân. Họ có thật sự học hỏi về Chúa Cha, tin tưởng và để cho Người
lôi kéo hay không. Thực tế, không chỉ những người Do Thái không thể đến với Đức
Giêsu mà ngay cả một số “môn đệ” cũng không thể chấp nhận “những lời” của Đức Giêsu.
9. “Đi
ra đằng sau … không còn đi với”: Phản ứng của nhóm các môn đệ đến cao điểm,
khi nhiều người trong họ quyết định đi ra đằng sau (rút lui). Động từ “đi về
phía sau” được giải thích cụ thể bằng một động từ nữa “không còn đi với
Người nữa” (không còn chung lối nữa). Nghĩa là đường ai nấy đi. Từ nay, Đức
Giêsu đi đường của Người, còn họ đi đường của họ. Tin Mừng Nhất Lãm cũng kể về
câu chuyện một chàng thanh niên (Lc: Một thủ lãnh; Mc: Một người) giàu
có đến để tham vấn Đức Giêsu về bí quyết để có “sự sống đời đời”. Đức Giêsu
có cảm tình với anh ta, vì anh ta giữ Luật rất tốt. Tuy nhiên, khi Người khuyên
anh là “hãy bán tất cả những gì anh có, cho người nghèo, rồi đến theo” Người,
anh ta liền buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (Mt 19,16-22; Mc
10,17-22; Lc 18,18-23). Câu chuyện này cũng có đề tài liên quan đến sự sống đời
đời. Nếu như “người thanh niên” trong Tin Mừng Nhất Lãm được yêu cầu bỏ đi mọi
sự và theo Đức Giêsu, những môn đệ trong Tin Mừng Gioan được mời gọi “ăn thịt”
và “uống máu” của Đức Giêsu. Kết cục chung đáng buồn là họ đều “bỏ đi”, “không
đi với” Người nữa. Nhóm môn đệ này có thể là những người đã có cơ hội được nhìn
thấy phép lạ “hóa bánh ra nhiều”; “Đức Giêsu đi trên mặt nước” và tự mạc khải của
Người “Ta hiện hữu” (ego eimi), nghe toàn bộ bài giảng của Người, nhưng đến cuối
cùng họ lại thất bại trong việc đón nhận Người như là nhóm “đám đông” và “những
người Do Thái”.[10]
10. “Đã
tin và biết”: Thính giả của “Diễn Từ Bánh Hằng Sống” ngày càng ít dần.
Chúng ta không nghe nói “đám đông”, nhóm những người Do Thái bỏ đi, nhưng những
tranh luận, xầm xì phản đối của họ cho thấy rất khó để họ tin theo Đức Giêsu.
Ngay cả nhiều môn đệ của Đức Giêsu cũng “chia tay” với Người. Chỉ còn lại vọn vẹn
Nhóm Mười Hai. Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện Nhóm Mười Hai, chúng ta
biết được họ “đã tin” và “đã biết”. Cả hai động từ này đều được dùng ở thì
hoàn thành, một loại thì thường dùng để chỉ hiệu quả kéo dài của hành động.
Hành động “tin” và “biết” của họ đã diễn ra trong quá khứ, nhưng hiệu quả vẫn
còn. Thực tế là họ đã và đang đi theo Đức Giêsu và tiếp tục nghe Người. Nói
theo kiểu của R. Beasley-Murray, sự biểu lộ đức tin và niềm hy vọng một cách đầy
nhiệt huyết trước đây đã tiến triển tròn đầy hơn về đức tin và hiểu biết về Đức
Giêsu.[11] Tiếc
thay, không phải tất cả họ, bởi người thuật chuyện đã cho biết “ngay từ đầu Đức
Giêsu biết những kẻ nào không tin và kẻ nào sẽ nộp Người”. Ngay trong Nhóm Mười
Hai không những có kẻ không tin mà còn có kẻ nộp Người.
11. “Đấng Thánh của Thiên Chúa”: Trong Tin
Mừng Nhất Lãm, Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng
Sống” (Mt 16,16; Mc 8,29: “Đấng Kitô”; Lc 9,20: “Đấng Kitô của Thiên Chúa”).
Trong Tin Mừng thứ tư, ông tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Đây là danh hiệu mà thần ô uế đã nhận ra và công bố trong Tin Mừng Nhất Lãm:
“Ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông, mà ông đến tiêu diệt
chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24). Chỉ
một mình Thiên Chúa là Đấng Thánh. Trong Cựu Ước, “Người Thánh” hay “Đấng
Thánh của Thiên Chúa ám chỉ những người được thánh hiến cho Chúa như là Samson
trong Tl 13,7 và 16,17; Aharon trong Tv 106,16. Trong bối cảnh những người
Do thái cho rằng Người phạm thượng, Đức Giêsu cũng đã gọi mình là Đấng được
Chúa Cha thánh hóa và sai xuống trần gian.[12] “Đấng
Thánh” cũng có thể hiểu như là Đức Giêsu là một tư tế như cách hiểu
của tác giả thư Hípri (Dt 3,1;4,14). Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa có
thể theo nghĩa là Người là Đấng Kitô, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu
Thánh Hiến. Có một số bản Tin Mừng Gioan tiếng Hy Lạp, bản tiếng Syriac cổ và bản
Latinh Vulgata đã viết là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” (thay vì Đấng Thánh của
Thiên Chúa). Như thế, lời tuyên xưng của Phêrô ở đây có thể có ý nghĩa tương tự
như lời tuyên xưng trong Tin Mừng Nhất Lãm. Trong Luca, Đức Giêsu được sứ thần
Gábriel giới thiệu là Đấng Thánh (Lc 1,35: Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi
là Con Thiên Chúa). Trong sách Công Vụ, Phêrô cũng tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng
Thánh và Đấng Công Chính (Cv 3,14: Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công
Chính mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân). Tác giả thư thư nhất của Phêrô cũng
gọi Đức Giêsu là Đấng Thánh: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở,
để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (1 Pr 1,15; Cf. 1 Pr 3,15). Danh xưng
“Đấng Thánh” trong các ví dụ vừa nêu diễn tả thần tính của Đức Giêsu. Người là
Thiên Chúa.
BÌNH LUẬN TỔNG QUÁT
Diễn từ Bánh Hằng
Sống ngay từ đầu được mở ra cho cả đám đông đi theo Đức Giêsu từ Tibêria. Họ được
mời gọi “làm việc vì của ăn duy trì sự sống đời đời” (Ga 6,27). Công việc đơn
giản là “tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến”. Đám đông bắt đầu đặt vấn đề về
sự đáng tin cậy của Đức Giêsu, vì họ có trong đầu truyền thống Thiên Chúa cho
cha ông họ ăn Manna qua ông Môsê. Đức Giêsu giải thích cho họ rằng là chính
Chúa Cha là Đấng đã ban bánh từ trời. Đề tài đã có lúc trở nên rất hấp dẫn, thu
hút họ khi Đức Giêsu nói rằng “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống, Đấng
mang lại sự sống cho thế gian” (6,32). Thật vậy, họ đã xin Người cho được ăn
mãi thứ bánh ấy. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu cho họ biết rằng bánh ấy chính là Người
thì sự nghi ngờ bắt đầu nảy sinh (6,36). Những người Do Thái vào cuộc tranh luận
về nguồn gốc “từ trời của Đức Giêsu”, bởi họ biết quá rõ về nguồn gốc trần gian
của Người (Con ông Giuse và bà Maria, quê ở Nadarét, một nơi chẳng có gì đặc biệt).
Khi Đức Giêsu còn chưa thuyết phục họ về nguồn gốc “từ trời” thì lời mời gọi
“ăn thịt” và “uống máu” của Người càng trở nên khó chấp nhận hơn. Có thể lời mời
gọi uống máu đụng chạm đến truyền thống ngàn đời của người Do Thái là cấm ăn tiết
động vật: “Các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó tức là máu” (St
9,4). Hình phạt dùng cho người ăn tiết rất là nặng: “Bất cứ người nào thuộc
nhà Israel ăn hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn bất cứ thứ huyết
nào, thì ta sẽ quay mặt phạt kẻ ăn huyết và loại trừ nó ra khỏi dân nó, vì mạng
sống của xác thịt là máu, vì Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để
cử hành Lễ Xá Tội. Thật vậy máu xá tội được vì nó là mạng sống” (Lv
17,10-11; Cf. Lv 7,26; 17,26; Đnl 12,16.23-25; 15,23). Quả thực, lời mời gọi có
phần lạ lùng này cũng làm cho chính các môn đệ của Đức Giêsu cảm thấy khó nghe,
và khó chấp nhận. Nếu trong truyền thống Cựu Ước, máu là phần bị cấm ăn vì nó
là sự sống, thì Đức Giêsu lại mời gọi ăn máu để thông phần vào sự sống với Người.
Thính giả của Đức Giêsu ngày càng phản đối nhiều hơn và đồng nghĩa với việc
ngày càng có ít người theo Đức Giêsu hơn. Thực tế là nhiều môn đệ đã rút lui,
không đi theo Đức Giêsu nữa. May mắn thay, còn có Nhóm Mười Hai đã tin và đã biết
rằng Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tuy vậy, ngay trong Nhóm Mười Hai
lại cũng có kẻ manh nha nộp Đức Giêsu. Cái nghịch lý người tin – kẻ không tin;
người theo – kẻ bỏ; người đón nhận – kẻ chối từ là một nghịch lý thường xảy ra
trong sứ mạng rao giảng của Đức Giêsu. Tin Mừng Gioan đã cho thấy điều này ngay
từ Lời Tựa: “Thế gian nhờ Người mà có nhưng lại không biết Người; Người đã đến
nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận; còn những ai đón nhận tức là những
ai tin vào danh của Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa” (Ga
1,11-12) và nghịch lý này cứ tiếp tục (Ga 3,11-21.31-36).[13]
Có thể nói rằng,
thính giả của thời Đức Giêsu cũng như các thành viên Kitô hữu của cộng đoàn
Gioan, thế kỷ thứ nhất đang phải trải qua thời kỳ tranh đấu và chứng minh cho
căn tính, thần tính của Chúa Kitô, những luận điểm Kitô học trọng điểm về Người.
Người là Đấng từ trời xuống. Người từ nơi Thiên Chúa mà đến; là bánh ban sự sống
đời đời cho nhân loại. Mạc khải về Bí Tích Thánh Thể: “Thịt tôi thật là của ăn
và máu tôi thật là của uống; ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở trong tôi và tôi ở
trong người ấy; ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống đời đời và tôi sẽ cho
người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,54-56), cũng không phải là một mạc
khải dễ hiểu và dễ đón nhận cho cả người Do Thái và cả những Kitô hữu sơ khai. “Nhiều
môn đệ” đã bị vấp ngã và rút lui trước giáo huấn này. Giáo Lý Hội Công Giáo dạy
rằng “Trong Thánh Lễ, nhờ lời Đức Kitô và lời Hội Thánh kêu cầu Chúa Thánh Thần,
bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô”.[14]
Trích lại lời của Công Đồng Trentô, GLHTCG cũng khẳng định rằng trong Bí tích
Thánh Thể “có sự hiện diện đích thực, thực sự và bản thể của Mình và Máu Đức Kitô,
cùng với linh hồn và thiên tính của Người tức là Đức Kitô trọn vẹn”.[15]
Ngược lại, với những Kitô hữu Công Giáo, những Kitô hữu Tin Lành chỉ xem Cử
Hành Bẻ Bánh như là như là một tưởng niệm, theo lời Đức Giêsu đã nói: “Các con
hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thấy”. Có nghĩa là, theo họ, Đức Giêsu không
thật sự hiện diện trong bánh và rượu. Chúng không phải là Mình và Máu thánh Người.
Tình huống này có vẻ tương tự như sự phân rẽ giữa nhóm “nhiều môn đệ” và Nhóm
Mười Hai mà tác giả Tin Mừng thứ tư đã đề cập. Tác giả đã ghi lại những mạc khải
trù phú về Bí Tích Thánh Thể, điều mà các độc giả không thể tìm thấy trong các
Tin Mừng Nhất Lãm. Có thể nói rằng: Diễn Từ Bánh Hằng Sống của Tin Mừng thứ tư
như là một diễn giải hoàn hảo cho việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể được ghi lại
trong Tin Mừng Nhất Lãm và thư Phaolô (1 Cr 11,23-25; Mc 14,22-24; Mt 26,26-28;
Lc 22,19-20).
Lời tuyên xưng
của Phêrô “[duy nhất] Thầy có lời ban sự sống đời đời” là một cái kết hoàn hảo
cho Diễn Từ Bánh Hằng sống, trong đó chủ đề Đức Giêsu là “bánh ban sự sống đời
đời”. “Tấm Bánh Giêsu” vừa là “lời” có thần khí và sự sống, vừa là thịt và máu
của Người. Khi tham dự Thánh Lễ, các Kitô hữu được mời gọi tham dự cách trọn vẹn
vào bàn tiệc “Lời Chúa” và bàn tiệc “Thánh Thể”, nơi đó họ nhận được nguồn sống
cho đời sống hiện tại và sự sống vĩnh cửu. Họ được mời gọi lấy Lời Chúa Giêsu
và thịt máu Người làm nguồn sống cho mình. Ai ăn thịt và uống máu Chúa, chìm đắm
trong lời Chúa thì ở trong Chúa và Chúa ở trong mình. Như thế thì họ có thể nói
như thánh Phaolô: “Tôi sống không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl
2,20). Bí tích Thánh Thể không những giúp cho các Kitô hữu trở nên một với Chúa
mà còn làm cho họ trở nên một với nhau, bởi vì tất cả cùng chia sẻ một thân
mình và máu của Chúa Kitô. Như thế, Bí Tích Thánh thể giúp cho con người tìm lại
mối tương quan ruột thịt mà sách Sáng Thế đã mạc khải: “Này là xương bởi xương
tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhân loại vốn thuộc về nhau và cần có nhau là thế.
Lm. Joseph Phạm
Duy Thạch, SVD.
[1]
Xem thêm về “Nhóm Mười Hai” trong J.P.D. Thạch, “Từ Hoán Cải đến Chứng Nhân Của
Sự Hoán Cải. Chú Giải Tin Mừng CN V TN B (Mc 6,6b-13)” [LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (ῥήματα ζωῆς αἰωνίου): TỪ HOÁN CẢI ĐẾN CHỨNG NHÂN CỦA SỰ
HOÁN CẢI. Chú Giải Tin Mừng CN V TN B (Mc 6,6b-13)
(josephpham-horizon.blogspot.com)] (truy cập 17/08/2021).
[2] A Greek-English lexicon of the New Testament and
other early Christian literature (ed. F.W. Danker) (BDAG; Chicago – london 2001) “μαθητής”,
609.
[3]
Theo R. Beasley-Murray, “Lời này” (lời khó nghe) bao gồm toàn bộ thảo luận từ
cc.35-59 [R.G. Beasley-Murray, John (WBC; Dallas 1999) XXXVI, 96].
[4] Một
vài tác giả cho rằng khi nói đến sự sống Đức Giê-su đang nhấn mạnh giá trị của
chính lời của Người đối lại với những lời của ông Mô-sê. Có thể Đức Giê-su
thach thức loại suy nghĩ của người Do Thái được tìm thấy âm vang trong Midrash
Mekita về Xh 15,26: “Những lời của Lề Luật mà tôi đã ban cho anh chị em là sự sống
cho anh chị em.” [R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII): Introduction,
translation, and notes (AYB; New Haven - London 2008) XXIX, 297].
[5] X.
J.P.D. Thạch SVD, “Từ Bánh đến Thịt. Chú Giải Tin Mừng CN XIX TN B” [LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (ῥήματα ζωῆς αἰωνίου): TỪ BÁNH ĐẾN THỊT. Chú giải Tin Mừng
CN XIX TN B (josephpham-horizon.blogspot.com)].
[6] R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII): Introduction,
translation, and notes (AYB; New Haven - London 2008) XXIX, 296.
[7]
BDAG, “πνεῦμα”, 833.
[8]
A Greek-English lexicon of the New Testament and
other early Christian literature (ed. F.W. Danker) (BDAG; Chicago – london 2001) “ψυχή”, 1099.
[9]
F.J. Moloney, The Gospel of John (SP4; Collegeville 2005) 228
[10]
F.J. Moloney, The Gospel of John, 227.
[12] R.E. Brown,
The Gospel according to John (I–XII),
298.
[13] F.J.
Moloney, The Gospel of John (SP4; Collegeville 2005) 227.
[14]
GLHTCG, 1333, 1353.
[15]
GLHTCG, 1374.
No comments:
Post a Comment