Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
36 Περὶ δὲ τῆς ἡμέρας ἐκείνης καὶ ὥρας οὐδεὶς οἶδεν, οὐδὲ οἱ ἄγγελοι
τῶν οὐρανῶν οὐδὲ ὁ υἱός, εἰ μὴ ὁ πατὴρ
μόνος. 37 Ὥσπερ γὰρ αἱ ἡμέραι τοῦ Νῶε, οὕτως ἔσται ἡ παρουσία τοῦ υἱοῦ τοῦ ἀνθρώπου. 38 ὡς γὰρ ἦσαν ἐν ταῖς ἡμέραις [ἐκείναις] ταῖς πρὸ τοῦ κατακλυσμοῦ τρώγοντες καὶ πίνοντες, γαμοῦντες καὶ
γαμίζοντες, ἄχρι ἧς ἡμέρας εἰσῆλθεν Νῶε εἰς
τὴν κιβωτόν, 39 καὶ οὐκ ἔγνωσαν ἕως ἦλθεν ὁ κατακλυσμὸς καὶ ἦρεν ἅπαντας,
οὕτως ἔσται [καὶ] ἡ παρουσία τοῦ υἱοῦ τοῦ ἀνθρώπου. 40 Τότε δύο ἔσονται
ἐν τῷ ἀγρῷ, εἷς
παραλαμβάνεται καὶ εἷς ἀφίεται· 41 δύο ἀλήθουσαι ἐν τῷ μύλῳ, μία παραλαμβάνεται καὶ μία ἀφίεται. 42 Γρηγορεῖτε οὖν, ὅτι οὐκ οἴδατε ποίᾳ ἡμέρᾳ ὁ κύριος ὑμῶν ἔρχεται. 43 Ἐκεῖνο δὲ γινώσκετε ὅτι εἰ ᾔδει ὁ οἰκοδεσπότης ποίᾳ
φυλακῇ ὁ κλέπτης ἔρχεται, ἐγρηγόρησεν ἂν καὶ οὐκ
ἂν εἴασεν διορυχθῆναι τὴν οἰκίαν αὐτοῦ. 44 διὰ τοῦτο καὶ ὑμεῖς γίνεσθε ἕτοιμοι, ὅτι ᾗ
οὐ δοκεῖτε ὥρᾳ ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου ἔρχεται. (Matt. 24:37-44 BGT) |
36 Về ngày đó và giờ đó thì không ai biết,
thậm chí các thiên sứ trên trời, Người Con cũng không, ngoại trừ một mình Người Cha. 37 Vì hệt như những ngày của
ông Nôê, Parousia của Con Người cũng như
thế. 38 Vì giống như trong những
ngày trước trận lụt, người ta vẫn ăn và
uống, cưới vợ, và lấy chồng, cho đến ngày ông Nôê đi vào tàu. 39 Họ không hay biết gì cho đến khi trận lụt xảy ra và cuốn đi tất
cả, sự đến của Con Người cũng sẽ
như thế. 40 Vào lúc ấy, hai người đang ở
trên một cánh đồng, một
người được mang đi còn người kia bị bỏ lại. 41 Hai người đang xay nơi cối xay,
một người được mang đi,
còn người kia bị bỏ lại. 42 Vây, hãy canh thức,
vì anh em không biết vào
ngày nào, Chúa của anh em đến. 43 Nhưng hãy biết rằng nếu chủ
nhà biết trước vào canh nào, kẻ trộm
đến, ông chắc hẳn đã canh thức không cho phép hắn
đột nhập vào nhà mình. 44 Vì thế, anh em cũng vậy, hãy
sẵn sàng, vì vào giờ anh em không ngờ,
Con Người đến. |
Bối cảnh
Mt 24,36-44 là một phần trong bài giảng về thời tương lai (thời cánh chung) của Đức Giêsu theo cấu trúc của Tin Mừng Mátthêu (Mt 24,1 – 25,46).[1] Dựa trên dấu hiệu văn chương “khi Đức Giêsu kết thúc những điều ấy” (7,29; 11,1; 13,53; 19,1; 26,1) có thể thấy rằng, tác giả Mátthêu có ý chia thời kỳ giảng dạy công khai của Đức Giêsu thành năm phần xen kẽ giữa phần kể chuyện và phần bài giảng: Cứ sau một loạt trình thuật về kể chuyện, sẽ có một loạt bài giảng.[2] Các tác giả Nhất Lãm thường xếp những bài giảng liên quan đến thời cánh chung, vào cuối thời kỳ rao giảng của Đức Giêsu trước những trình thuật về Thương Khó – Phục Sinh – Lên Trời, thời điểm Đức Giêsu rời các môn đệ để bước vào cuộc Thương Khó và sau đó là về trời. Việc bố trí như vậy xem ra hợp lý, cho dù trong thực tế lịch sử, không hẳn Đức Giêsu đã giảng những bài giảng về thời cánh chung ngay trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó. Những trình thuật này không chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh trước thềm của trình thuật Thương Khó, mà còn có ý nghĩa trong khoảng thời gian Đức Giêsu đã lên trời. Trong bối cảnh trực tiếp, đoạn văn Mt 24,36-43 được đặt ngay sau dụ ngôn “cây vả” (Mt 24,32-35), là một dụ ngôn có ý nghĩa tổng kết tất cả những hiện tượng Đức Giêsu đã nói đó, như những dấu hiệu về ngày đến (Parousia) của Con Người. Tương tự như câu chuyện “cây vả”, câu chuyện về trận lụt thời ông Nôê, được kể lại để minh họa cho tính bất ngờ của “Parousia” của Con Người. Câu chuyện về người đầy tớ “trung tín và khôn ngoan” (24,45-51), rồi dụ ngôn “mười trinh nữ đón chàng rể” (25,1-13) và “dụ ngôn những nén bạc” (24,14-30), tiếp theo sau đó như là những minh họa cụ thể cho thái độ “canh thức” và “sẵn sàng” được nhấn mạnh trong câu chuyện này. Những cách nói như “ông chủ đến” (24,46); “chú rể đến” (25,10); “ông chủ của những đầy tớ ấy đến và quyết toán với họ” (25,19) rõ ràng là ngôn từ rất gần gũi với “Con Người đến”, được nói đến trong câu chuyện này.
Cấu trúc
Cảnh báo: Không ai biết ngày và giờ (36) Minh họa: Người ta không hay biết (37-39) Vì giống như những ngày của ông Nôê, Cũng sẽ như vậy Parousia của Con Người Vì giống như những ngày trước … ông Nôê Cũng sẽ như vậy Parousia của Con Người Hai số phận
trái ngược (40-41): Được mang đi – bị bỏ lại (40-41) Hai người ở ngoài đồng Một được mang đi – một bị bỏ lại Hai người đang xay ở cối xay Một được mang đi – một bị bỏ lại Mệnh lệnh:
Hãy canh thức (42-43) Hãy canh thức, vì anh em không biết vào ngày nào, Chúa của anh em đến. nếu chủ nhà biết trước vào canh nào, kẻ trộm đến, ông chắc hẳn đã canh thức Mệnh lệnh:
Hãy sẵn sàng, Hãy sẵn sàng vì vào giờ anh em không ngờ, Con Người đến. |
Một vài điểm chú giải
1.
Ngày … giờ … canh: “Ngày”, “giờ” là những khái niệm thời gian trong tương lai mà Đức Giêsu
dùng để nói về thời điểm “Con Người đến” (Mt 24,33). Danh từ “ngày” ngày được lặp
lại năm lần trong đoạn văn này: “Ngày đó” (24,36); “Những ngày của ông Nôê”
(24,37); “Những ngày trước trận lụt” (24,38); “Ngày ông Nôê đi vào tàu” (24,38);
“Ngày nào” (24,42). Danh từ “giờ” được lặp lại hai lần (24,36.44). Tin Mừng đã
nói về “ngày phân xử” trong 10,15; 11,22.24; 12,36 và cụm từ “ngày ấy” có cùng
ý nghĩa với ngày trong 7,22, trong đó Đức Giêsu xuất hiện như một quan tòa “vào
ngày ấy”. Chủ đề này sẽ được diễn giải bằng một câu chuyện trong Mt 25,31-34,
nơi mà Con Người ngồi trên ngai vinh hiển và xét xử muôn dân.[3]
Các danh từ “ngày” và “giờ” đi kèm với những khái niệm như “không ai biết”
(24,36), “anh em không biết”, và “anh em không nghĩ” làm thành những yếu tố
đóng khung cho đoạn văn có cấu trúc inclusio: “Ngày đó và giờ đó, không ai biết”
(24,36) … “anh em không biết ngày nào”, “vào giờ anh em không ngờ” (24,42-44). Kiểu
đóng khung này cho thấy mức độ quan trọng lời cảnh báo về tính bất ngờ của thời
điểm Con Người đến. “Canh” là khái niệm dùng riêng để diễn tả thời điểm đột nhập
của kẻ trộm, vì kẻ trộm thường đến vào ban đêm. “Canh” cũng thường được dùng để
diễn tả thời điểm trở về bất ngờ của ông chủ đi ăn tiệc cưới: “Nếu ông ta đến vào
khoảng canh ba hay canh tư và thấy họ tỉnh thức, phúc cho những người đầy tớ ấy”
(Lc 12,38). Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ vào khoảng canh tư
(Mt 14,25) và họ đã hoảng sợ, nghĩ đó là ma (14,26).
2. Các thiên sứ trên trời cũng không … Người Con cũng không: Những danh xưng
“các thiên sứ trên trời”, “Người Con”, được trưng dẫn đối xứng với đại từ
“không ai” nhằm nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của đại từ “không ai”.[4]
“Các thiên sứ trên trời” là những nhân vật thuộc thế giới thần linh, là sứ giả
của Chúa, và thường nắm bắt được những mầu nhiệm của Chúa hơn người phàm ở dưới
đất. Cách gọi “thiên sứ trên trời/ của trời” được sử dụng cách thường xuyên, để
đối lại với con người dưới đất. Con người phục sinh được sánh với các thiên sứ
trên trời (Mt 22,30; Mc 12,25). Họ cũng được gọi là “thiên sứ của Chúa” (Mt 16,27;
28,2; Lc 12,8.9; Ga 5,4). Ngay cả các “thiên sứ trên trời” dù biết nhiều mầu
nhiệm nhưng vẫn không biết ngày và giờ Con Người đến. Không những “các thiên sứ”,
mà thậm chí “Người Con”, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (Ga 1,18), cũng
không biết. Nói cách khác, không thể nào biết được “ngày” và “giờ” Con Người đến.[5]
Có nhiều lối lý giải cho cụm từ “Người Con cũng không [biết ngày, giờ, ấy]”. Một
trong những lối lý giải nổi tiếng là lý giải dựa trên quan điểm thần học gọi là
“kitô tự hủy”. Kitô học tự hủy nhìn nhận đầy đủ thần tính của Người Con, nhưng
tranh luận rằng vào thời gian nhập thể, một số thuộc tính thần linh (trong trường
hợp này là sự toàn tri) được giản lược một cách tự nguyện. Tuy nhiên, những lý
luận như thế, thuộc về giai đoạn phát triển muộn thời hơn của tín lý kitô giáo.
Theo tác giả R. France, Đức Giêsu của Mátthêu một mặt cho thấy tương quan mật
thiết giữa Người và Chúa Cha (Mt 11,27), mặt khác Người dành quyền ưu tiên cho
Chúa Cha và sự phụ thuộc của Người nơi Chúa Cha. Tương tự như cách diễn tả của
tác giả Tin Mừng thứ tư: “Ta và Chúa Cha là một” (Ga 10,30) và “Chúa Cha cao trọng
hơn Ta” (Ga 14,28).[6] Đức
Giêsu đã hơn một lần ám chỉ với các môn đệ về một số mầu nhiệm thuộc quyền Chúa
Cha: “Ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên
Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10,40); “Anh em không cần biết
thời giờ hay kỳ hạn mà Chúa Cha đã xếp đặt với quyền của Người” (Cv 1,7).
3. Hai người đang ở ngoài đồng … hai người
đang xay ở cối xay … Một được mang đi… một bị bỏ lại: Đức Giêsu hướng đến hậu
quả cụ thể sẽ xảy đến cho từng người lúc “Con Người đến”. Trạng từ “Τότε”
(vào lúc ấy/ rồi) tiếp theo ngay sau câu “người ta không hay biết cho đến khi
trận lụt đến và cuốn trôi tất cả, “Parousia” của Con Người cũng vậy”, xác định
thời gian là “lúc ấy” – chính là lúc “Con Người đến”. Hai câu văn được cấu trúc
theo lối song song cách hoàn hảo, diễn tả hai cặp nhân vật ở vị trí giống nhau
(ở ngoài đồng, nơi cối xay), làm công việc như nhau (đang xay), nhưng có hai số
phận trái ngược: “Một người được mang đi, một người bị bỏ lại”. “Hai người đang
ở ngoài đồng” thường được hiểu là “hai người đàn ông”, có lẽ vì những người đàn
ông thường làm việc ở trên đồng. Thực ra, động từ dùng để mô tả hành động của họ
chỉ là một động từ ngôi thứ ba số nhiều, thì tương lai (sẽ đang ở: ἔσονται), với chủ từ là số hai (δύο), không có
danh từ “người đàn ông”. Cũng vậy, danh từ “người phụ nữ” cũng không được dùng,
chỉ có số hai, nhưng động từ dùng để mô tả hành động của hai người này là một động
từ ở thể phân từ, thì hiện tại, số nhiều, giống cái. Vì thế, dịch là “hai người
phụ nữ” trong trường hợp này có thể chấp nhận được.[7]
Tác giả Luca còn thêm vào “hai người
đang ở trên một giường” (Lc 17,34), làm thành ba cặp nhân vật, có thể là cặp vợ
chồng và ở vị thế nghỉ ngơi, nhằm làm phong phú thêm cho các loại nhân vật và
các vị trí khác nhau.
4. Được mang đi” – “bị bỏ lại” hay “bị mang
đi” - “được để lại”? Cả hai động từ
“mang đi” và “để lại” đều được chia ở thể bị động, nghĩa là cả hai người này đều
chịu tác động của một tác nhân khác, rất có thể là Chúa. Điều gây khó hiểu là
giữa hai hành động ấy, hành động nào mang nghĩa tiêu cực và hành động nào mang
nghĩa tích cực. Trong Tiếng Việt, có những từ vựng để diễn tả ý nghĩa tích cực
và tiêu cực khá rõ đối với động từ bị động. Khi muốn diễn tả hành động tích cực,
người ta thêm từ “được” vào trước động từ (ví dụ: “được ăn, được nói, được gói
mang về”), còn nếu muốn diễn tả hành động tiêu cực, thì chỉ cần thêm từ “bị”
vào trước động từ (vd: “ông bị đau chân”). Trong trường hợp hai động từ được
dùng trong đoạn văn này, bản dịch Tiếng Việt (CGKPV) chọn nghĩa tích cực cho
hành động “mang đi”: “Một người được mang đi” và nghĩa tiêu cực dành cho hành động
“để lại”: “Một người bị bỏ lại”. Ngược lại với nhóm CGKPV, dịch giả Nguyễn Thế
Thuấn chọn cách hiểu ngược lại: “Một sẽ bị mang đi” và “một sẽ được để lại”. Nhiều
tác giả chọn cách hiểu như nhóm CGKPV (một người được mang đi và một người bị bỏ
lại), ngụ ý rằng “những người được mang đi” để hưởng niềm vui với Chúa, còn “những
người bị bỏ lại” sẽ nhận bản án của Chúa.[8]
Các tác giả D. Davies – D. Allison cũng phân vân giữa hai cách hiểu, nhưng
nghiêng về cách hiểu “được mang đi – bị bỏ lại” hơn vì bốn lý do: (1) Tác giả
Mátthêu thường dùng động từ “để lại” (ἀφίημι) theo nghĩa là “bỏ rơi”, nghĩa tiêu cực
(4,20.22; 8,22; 19,29; 23,38; 26,56); (2) Động từ “mang đi” (παραλαμβάνω) thường được dùng
theo nghĩa “mang vào nơi an toàn” trong 2,13.14.20.21[9];
(3) Bức tranh các thiên sứ mang các thánh đến để gặp Con Người có lẽ là rất phổ
biến trong thời Giáo Hội sơ khai; (4) Trong cc. 37-39 những người “được mang”
(vào trong thuyền) được cứu trong khi những người bị bỏ lại phía sau bị lũ cuốn
trôi.[10]
Tác giả B.L. Merkle đề xuất một cách hiểu ngược lại: “Bị mang đi” - “được để lại”,
ngụ ý rằng, những người “được để lại” mới là những người được hưởng phúc lành,
còn những người “bị mang đi” là những người sẽ phải chịu hình phạt. Lập luận của
ông dựa trên ba điểm: (1) Dựa trên biến cố lịch sử về việc phá hủy vương quốc
Miền Bắc (721 BCE) và vương quốc Miền Nam (587), dẫn đến việc nhiều người bị
mang đi lưu đày (đi lưu đày là bị phạt, được ở lại là được phúc lành); (2) Ngôn
ngữ “bị mang đi” và “được để lại” trong giáo huấn của Đức Giêsu ám chỉ đến việc
“bị mang đi” là để trừng phạt (Mt 13,41-42), được để lại là được hưởng phúc (Mt
13,43) (3) Ngôn ngữ “trận lụt cuốn tất cả đi” tương đương với “một người bị
mang đi”.[11] Lập
luận của B. Merkle có vẻ hợp lý, nhưng có những vấn đề của nó. Thứ nhất, những
người trở về từ Babylon mới được xem là “số người sót lại” và là hạt nhân cho
công cuộc tái thiết đền thờ, chứ không phải là những người ở lại. Họ xem mình
như là những người được Thiên Chúa chúc phúc vì được Thiên Chúa cho trở về sau
khi đã thanh tẩy qua cuộc lưu đày. Thứ hai, động từ mô tả việc các thiên sứ “tập
trung từ vương quốc của Người tất cả những ngươi làm nguyên cớ tội lỗi và vô
luân và ném vào lò lửa” và động từ diễn tả lũ “cuốn trôi tất cả” (αἴρω) có
vẻ như không cùng dạng thức và ý nghĩa với động từ “mang theo” (παραλαμβάνω).
5. Ông chủ … kẻ trộm…Chúa của anh em: Tương
tự như câu chuyện trận lụt vào những ngày của Nôê, được nhắc lại nhằm minh họa
cho tính bất ngờ, người ta không hay biết về thời điểm mà Con Người đến, giả định
và cách hành xử của chủ nhà được đưa ra để minh họa cho lời mời gọi canh thức.
“Kẻ trộm” thường đến vào “giờ” mà chủ nhà không hay biết. Chính vì thế, mà các
vụ trộm mới diễn ra. Giả như chủ nhà biết trước “vào canh nào kẻ trộm đến” ông
chắc chắn sẽ canh thức và ngăn chặn nó. Hình ảnh “kẻ trộm” được đặt song song với
“Chúa của anh em” không có ý nói rằng Chúa như “kẻ trộm”, cho bằng nhấn mạnh đến
sự bất ngờ của thời điểm mà “kẻ trộm” và “Chúa của anh em đến”. Cấu trúc giả định
“nếu”: “Nếu” + Động từ ở thì “quá khứ hoàn thành” … và “Thì” + động từ thì
“aorist” (quá khứ), diễn tả một trường hợp không có thật và không xảy ra. Nghĩa
là, thực tế, chủ nhà thường không biết vào thời khắc nào “kẻ trộm” đến, và vì
thế ông cũng không thể “canh thức không để cho nó đột nhập vào nhà mình”. Ngược
lại với chủ nhà, các môn đệ của Chúa, vì không biết vào ngày nào Chúa đến, nên
họ phải luôn canh thức.
6. “Parousia của Con Người” … “Chúa của anh em
đến”… “Con Người đến”: Động từ “đến” được lặp lại rất nhiều lần trong đoạn
văn này: Trận bão đến (24,39); “Chúa của anh em đến” (24,42); “Kẻ trộm đến”
(24,43); “Con Người đến” (24,44). Bên cạnh động từ đến, danh từ đặc trưng được
sử dụng riêng cho “sự đến” của Con Người. Đó là thuật ngữ “Parousia” (ἡ
παρουσία). Đây là một thuật ngữ mang đậm nét cánh chung. “Parousia” có
nghĩa là “sự hiện diện”, “Parousia”. Trong đoạn văn này, danh từ “Parousia” được
ghép với “Con Người” : “Sự đến của Con Người”, được lặp lại hai lần (24,37.39)
= “Con Người đến” (24,44) = “Chúa của anh em đến”. “Parousia” của Con Người được
nhắc nhiều lần trong Tân Ước và trở thành niềm mong đợi của tất cả các kitô hữu
thời sơ khai. Chính Đức Giêsu mặc khải về “Parousia” của mình: “Con Người đến
trên mây trời với nhiều quyền năng và vinh quang” (Mt 24,30; Cf. 16,27; 24,27);
“Con Người đến trong vinh quang của mình và tất cả các thiên sứ với Người” (Mt
25,31; Mc 8,38; Lc 9,26); “Con Người đến trong vương quốc của Người” (Mt 16,28).
“Parousia” có thể đi kèm với “sự đóng lại/ kết thúc của thế giới”: “Hãy nói cho
chúng con khi nào những điều ấy sẽ xảy ra và đâu là dấu hiệu của parousia của
Thầy và của sự kết thúc thời gian?” (Mt 24,3). Hai người đàn ông mặc áo trắng mặc
khải về cách thức Đức Giêsu đến: “Đức Giêsu, Đấng được cất lên trời khỏi các
ông, cũng sẽ đến như thế, theo cách mà các ông thấy Người đi lên trời” (Cv
1,10-11). Thánh Phaolô là tác giả Tân Ước nói nhiều nhất về “Parousia” của Đức
Giêsu, đặc biệt trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thessalonica, một trong những
văn phẩm có niên đại sớm nhất của Tân Ước. Có lẽ, vì vào thời Giáo Hội sơ khai
các tín hữu, kể cả tác giả Phaolô nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ mau trở lại, nên chủ đề
này được bàn đến rất nhiều. Tác giả Phaolô nói đến “sự đến của Chúa Giêsu cùng
với các thánh của Người” (1 Tx 3,13; Cf. 1 Tx 1,10; 2,19; 4,15; 5,23).
7. Hãy canh thức … vì không biết vào ngày nào:
Đức Giêsu của Mátthêu sử dụng sáu lần động từ “γρηγορέω”
(canh thức): Ba lần trong trình thuật “cánh chung” (Mt 24,42.43; 25,13; Cf. Mc
13,35.37) và ba lần trong bối cảnh Đức Giêsu cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu (Mt
26,38.40.41; Cf. Mc 14,34.38). Sự canh thức trong Vườn Cây Dầu đi đôi với việc
cầu nguyện và mục đích là để khỏi rơi vào cơn cám dỗ (Mt 26,41). Sự canh thức ở
đây cũng là sự canh thức trong Vườn Cây Dầu. Canh thức để khỏi đi chệch khỏi
thánh ý Chúa. Đây là mệnh lệnh mang tính tổng kết, được đi kèm với trạng từ “οὖν”
(vì thế, do vậy): “Vì thế, anh em hãy canh thức...”. Động từ “γρηγορέω” có
nghĩa là “thức” (không ngủ), coi chừng (cảnh giác, đề phòng); “sống” (1 Tx
5,10). Mệnh lệnh này được kèm theo một mệnh đề chỉ lý do “vì anh em không biết
vào ngày nào Chúa của anh em đến” và một tình huống giả định để minh họa. Sự
canh thức, bằng cách thể hiện mình đang sống là một hành động liên lỉ, không lơ
là, ngơi nghỉ. Tác giả ghi nhận ý nghĩa biểu tượng của hành động “tỉnh thức”
trong bối cảnh này là “thức tỉnh về tinh thần cũng như luân lý”.[12] “Con Người” được thay bằng “Chúa của anh em”. Tác giả Máccô còn
cụ thể hóa những giờ mà “chủ nhà” có thể đến: “Vào lúc tối, vào lúc nửa đêm,
hay vào lúc gà gáy hay vào buổi sáng” (Mc 13,35).
8.
Hãy sẵn sàng vì vào giờ anh em không ngờ: Song song với mệnh lệnh “hãy canh thức” là
mệnh lệnh “hãy sẵn sàng”. Tính từ “sẵn sàng” được dùng để diễn tả thái độ của năm
cô trinh nữ khôn ngoan. Họ mang đèn và mang dầu kèm theo. Nhờ vậy, họ luôn sẵn
sàng và cùng với chàng rể đi vào tiệc cưới. Ngược lại, năm cô trinh nữ khờ dại.
Họ chỉ mang đèn nhưng không mang theo dầu. Vì vậy, họ không sẵn sàng và không
thể đi vào phòng tiệc cùng chàng rể. Câu chuyện trận lụt vào “những ngày của
ông Nôê” cũng cho thấy những ai sẵn sàng và những ai không sẵn sàng. Ông Nôê và
gia quyến phải chuẩn bị khá lâu: Tàu, lương thực, và mọi thứ cần thiết cho cuộc
sống trong khoảng thời gian trận lụt xảy ra. Có lẽ “sự sẵn sàng” có tính quyết
định nhất của ông Nôê chính là lối sống đẹp lòng Chúa, sống công chính trước mặt
Chúa của ông. Trái lại với những người cùng thời “cứ ăn, uống, cưới vợ, lấy chồng”.
Nghĩa là họ cứ bận tâm đến việc hưởng thụ cuộc sống thể lý, thỏa mãn đam mê xác
thịt của mình.[13] Cụm từ “giờ mà anh em không ngờ” là
một minh họa cho khoảnh khắc không sẵn sàng. Như thế, mệnh lệnh “hãy sẵn sàng”
mở rộng, cụ thể hóa, và minh giải mệnh lệnh “hãy canh thức”. “Canh thức” không
có nghĩa là ngồi chờ đợi cách bất động nhưng là chuẩn bị mọi sự cần thiết, luôn
ở trong tư thế sống căn tính là người con Chúa mọi nơi mọi lúc trong đời mình.[14]
9.
Không ai biết … người ta không biết … anh
em không biết … anh em không nghĩ là (ngờ): Đây là một loạt điệp ngữ được dùng trong đoạn văn
này để nhấn mạnh đến tính cách bí mật của “ngày” và “giờ” Con Người đến. Nó
cũng giúp cho các môn đệ và các tín hữu không bận tâm đến những lời đồn đoán về
thời điểm Con Người đến, cho bằng tập trung “canh thức” và “sẵn sàng” luôn. Việc
không đoán được sự đến của Con Người không phải là nguyên nhân gây thất vọng
hay cảnh báo, như là so sánh với “kẻ trộm” có thể ngụ ý. Ngược lại, những người
môn đệ phải làm điều chủ nhà không thể làm cho kẻ trộm, canh thức và sẵn sàng
cho “Parousia” của Chúa.[15]
Bình luận tổng quát
Mt 24,36-40 được
đóng khung bằng lời khẳng định mang nghĩa phủ định: “Không ai biết “ngày” và
“giờ” mà Con Người đến. Thực tế phũ phàng này không phải là một thông báo mang
tính hăm dọa, hay gây hoang mang, thất vọng cho bằng khuyến khích, cổ vũ một
thái độ đáp trả cách phù hợp. “Parousia” (sự đến) của Con Người chắc chắn sẽ xảy
ra và chính Đức Giêsu đã dành nhiều thời giờ để nói về nó. Trong khoảng thời
gian Đức Giêsu về trời, vắng bóng về mặt thể lý, “Parousia” là điều mà người ta
mong chờ nhiều nhất. Người ta bận tâm làm sao để biết được chính xác, lúc nào,
thời điểm nào, biến cố ấy diễn ra, nhưng Đức Giêsu đã khẳng định: “Về ngày và
giờ đó không ai biết, các thiên sứ trên trời cũng không, Người Con cũng không,
ngoại trừ Chúa Cha”. Nghĩa là, không có cách gì biết được thời điểm của biến cố
ấy. Do vậy, tất cả mọi quan tâm đến thời gian của biến cố ấy đều vô nghĩa. Điều
cần thiết nhất là “hãy canh thức” và “hãy sẵn sàng”. Canh thức là một tiến
trình liên lỷ, không phải là một hành động nhất thời. Canh thức không phải là một
hành động đơn lẻ, nhưng là một lối sống của người con Chúa. Canh thức nhằm hướng
về biến cố trọng đại “Parousia”, nghĩa là, ngày “Chúa của anh em đến”. Muốn
canh thức một cách hiệu quả thì nhất thiết người canh thức phải biết “Chúa của
mình” muốn thấy mình như thế nào khi Người đến. Luôn canh thức, luôn sống theo
tâm tư, nguyện vọng của Chúa, người canh thức sẽ trở nên “sẵn sàng” trong mọi
khoảnh khắc của cuộc đời. Sự hồi hộp, chờ đợi, không biết lúc nào Chúa đến, sẽ
mang lại cho những người luôn canh thức, sẵn sàng, cảm giác phấn khởi, thích
thú, dễ chịu nhưng sẽ luôn gây ra cho người không ngủ mê, thiếu sẵn sàng, cảm
giác nơm nớp, lo âu, hoảng loạn. Bởi lẽ, phần thưởng và hình phạt đã được Đức
Giêsu minh họa khá rõ nơi câu chuyện trận lụt vào những ngày của ông Nôê. Trong
khi ông Nôê và gia quyến, cùng với những con vật được tuyển chọn, được ở trong
tàu một cách an toàn, thì những người còn lại cùng với muôn vật bị nhấn chìm
trong biển nước. Sở dĩ ông Nôê được cứu là vì “ông đẹp lòng Chúa” (St 6,10),
Thiên Chúa chỉ thấy ông là “người công chính trước nhan” Người trong thế hệ này
(St 7,1) và ông đã “làm đúng như Chúa đã truyền” (St 6,22; 7,5). Có thể nói rằng,
ông Nôê đã luôn sống đẹp lòng Chúa, luôn “canh thức” và “sẵn sàng” trong mọi
lúc ở mọi nơi trước nhan Chúa. Số phận của những người “sẵn sàng” và “không sẵn
sàng” cũng được phân biệt bằng việc “được mang đi” và “bị bỏ lại”. Dù họ là đàn
ông hay đàn bà, đang ngoài đồng hay bên cối xay, đang làm ruộng hay xay bột,
vào “ngày ấy” số phận của họ chỉ được quyết định dựa trên tiêu chuẩn “canh thức”
và “sẵn sàng”. Nhằm giúp cho các môn đệ hiểu thế nào là “canh thức” và “sẵn
sàng”, Đức Giêsu tiếp tục minh họa bằng những dụ ngôn rất sống động “Người đầy
tớ trung tín” (Mt 24,45-51); “Mười trinh nữ” (Mt 25,1-13); “Những yến bạc” (Mt
25,14-30). Cuối cùng, trong cảnh “phán xét chung” (Mt 25,31-46), Đức Giêsu sẽ
nói rõ về những phẩm tính và hành vi của những người “được chúc phúc” và “những
người bị nguyền rủa” trong tương quan với Chúa và tha nhân. Rõ ràng, Đức Giêsu
đã chỉ dẫn rất cẩn thận và rõ ràng thái độ và cách thức để những người theo
Chúa có thể “sẵn sàng” cho ngày “Parousia” của Người. Họ được khích lệ, và mời
gọi bước vào hành trình canh thức một cách tích cực nhất có thể trong mọi phút
giây của cuộc đời mình.
Lm. Jos. Phạm
Duy Thạch, SVD
[1]
“Nelson argues that like other biblical leaders before him
such as Jacob (Genesis 47:29-49:33); Moses (Deuteronomy 31:1-34:38); Joshua
(Joshua 23:1-24:30); Samuel (1 Samuel 12:1-25), and David (1 Chronicles 28-29)
who all gave farewell or death bed speeches to their children, followers, or
successors as the case may be, Jesus prepared his followers to face the future
without his physical presence as he drew closer to the occasion of his death” [O.Bamidele – O.B. Oladejo, “Matthew 24 and its
Revelation to the Parousia”, AJBT 1/4 (2018) 142-157].
[2] Phần về thời Thơ Ấu (1,1 –
2,23); Phần kể chuyện thứ nhất (3,1 – 4,24) – Bài giảng trên núi (5,1 –
7,29); Phần Kể chuyện thứ hai (8,1 –
9,38) – Bài giảng về sứ vụ (10,1-42); Phần kể chuyện thứ ba (11,1 – 12,50) –
Bài giảng bằng dụ ngôn (13,1-52); Phần kể chuyện thứ bốn (13,53 – 17, 27) – Bài
giảng về đời sống Giáo Hội (18,1-35); Phần kể chuyện thứ năm (19,1 – 23,39) –
Bài giảng về tương lai (24,1 – 25,46); Phần khổ nạn – Phục Sinh – Lên Trời
(26,1 – 28,20) [X. B. Byrene, “Matthew”, The
Paulist Biblical Commentary (ed. R.J. Clifford et al.)(New York 2018)
908-909].
[3]
R.T. France, The Gospel of Matthew (NICNT; Grand
Rapids 2007) 939.
[4]
“If the angels and the Son, the leading characters in the eschatological
scenario, do not know something, it must lie beyond all others” [W.D. Davies– D.C. Jr., Allison, A Critical and Exegetical Commentary on the Gospel
according to Saint Matthew (ICC; London – New York 2004) III,
378].
[5] “the present verse clearly indicates the impossibility
of knowing the time of the Son of Man’s coming and the end of the age in
advance of their actual occurrence” [D.A. Hagner, Matthew
14-28 (WBC 33B; Dallas 1995) 716].
[6]
“For Matthew perhaps the paradox was not so much a matter of doctrinal
embarrassment (as it became for later copyists, see p. 931, n. 1) but rather of
wonder at the relationship between Father and Son which is implied here and in
11:27, one which combines a uniquely close relationship with a recognition of
priority or subordination, a paradox neatly summed up in the Johannine
declarations “I and the Father are one” (John 10:30) and “The Father is greater
than I” (R.T. France, The Gospel of Matthew, 940).
[7]
Dịch giả Nguyễn Thế Thuấn rất cận thận khi chỉ dịch là “hai người cùng ở trong
ruộng” (chứ không phải “hai người đàn ông”) và “hai bà cùng xay bột nơi cối”.
[8]
X. D.A.
Hagner, Matthew 14-28, 720; I.H. Marshall, The Gospel of Luke. A Commentary on the Greek Text (NIGTC;
Exeter 1978) 668; N. Geldenhuys, Commentary on the Gospel of Luke (NIGNT;
Grand Rapids 1951) 442; J. Nolland, The Gospel of Matthew (NIGTC; Grand
Rapids 2005) 994; J. Nolland, Luke 9:21-18:34 (WBC 35B; Dallas 1993)
862; J.B. Green, The Gospel of Luke (NICNT; Grand Rapids: Eerdmans,
1997) 636; DarrellL. Bock, Like 9:51-24:53 (Grand Rapids 1996) 1437; L.
Morris, Luke (TNTC 3; Leicester 1988) 286; R. T.
France, Matthew (TNTC; Leicester 1985) 348
[9]
R. France ủng hộ quan điểm này và lý giải rằng “The verb is paralambanō rather than a simple lambanō, and if the compound is more
than just a stylistic variation it might be understood to mean “take to
oneself” (as in 1:20; 17:1; 18:16; 20:17)” (R.T.
France, The Gospel of Matthew, 941).
[10]
W.D. Davies– D.C. Jr., Allison, the Gospel according to Saint Matthew,
383.
[11]
B.L. Merkle, “Who Will Be Left Behind? Rethinking the Meaning of Matthew
24:40-41 and Luke 17:34-35”, WTF 72 (2010) 169-179; R.France cùng quan điểm với
B. Merkle: “In the light of the preceding verses, when the flood “swept away”
the unprepared, that is probably the more likely sense here” (R.T. France,
The Gospel of Matthew, 941).
[12]
W.D. Davies– D.C. Jr., Allison, the Gospel
according to Saint Matthew, 383.
[13] “The periphrastic construction (εἰμί + present
participle) stresses the ongoing activity mentioned in the four participles
(all with the euphony of the same endings): τρώγοντες καὶ πίνοντες, γαμοῦντες καὶ γαμίζοντες, “eating and drinking, marrying and
giving in marriage.” No special significance is to be read into these
particular participles. They stand merely as indicators of the living of
everyday, ordinary life. The people of Noah’s day were oblivious to all else
than their own pleasurable living” (D.A. Hagner, Matthew 14-28, 719).
[14] “Another
implication of this passage for believers is that since the time is unknown, it
behooves all believers to always be at their duty posts; living each day as it was
the last in order not to live in injustice and unrighteousness; and being
engaged in fruitful ministry to honor of the Lord so that he would be glad at
his appearance to take the beloved home with him forever” (O.Bamidele – O.B. Oladejo, “Matthew 24 and its
Revelation to the Parousia”, 156).
[15]
W.D. Davies– D.C. Jr., Allison, the Gospel
according to Saint Matthew, 385.