Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
1 Καὶ ἐγένετο ἐν τῷ ἐλθεῖν αὐτὸν εἰς
οἶκόν τινος τῶν ἀρχόντων [τῶν] Φαρισαίων σαββάτῳ
φαγεῖν ἄρτον καὶ αὐτοὶ ἦσαν παρατηρούμενοι αὐτόν. 7 Ἔλεγεν δὲ πρὸς τοὺς κεκλημένους
παραβολήν, ἐπέχων πῶς τὰς
πρωτοκλισίας ἐξελέγοντο, λέγων πρὸς αὐτούς· 8 ὅταν κληθῇς ὑπό τινος εἰς γάμους,
μὴ κατακλιθῇς εἰς τὴν
πρωτοκλισίαν, μήποτε ἐντιμότερός σου ᾖ κεκλημένος ὑπ᾽ αὐτοῦ, 9 καὶ ἐλθὼν ὁ σὲ καὶ αὐτὸν καλέσας ἐρεῖ σοι· δὸς
τούτῳ τόπον, καὶ τότε
ἄρξῃ μετὰ αἰσχύνης τὸν ἔσχατον
τόπον κατέχειν. 10 ἀλλ᾽ ὅταν κληθῇς, πορευθεὶς ἀνάπεσε
εἰς τὸν ἔσχατον τόπον,
ἵνα ὅταν ἔλθῃ ὁ κεκληκώς σε ἐρεῖ σοι· φίλε, προσανάβηθι ἀνώτερον· τότε ἔσται σοι δόξα ἐνώπιον πάντων τῶν συνανακειμένων σοι. 11 ὅτι πᾶς ὁ ὑψῶν ἑαυτὸν ταπεινωθήσεται,
καὶ ὁ ταπεινῶν ἑαυτὸν ὑψωθήσεται. 12 Ἔλεγεν δὲ καὶ τῷ κεκληκότι αὐτόν·
ὅταν ποιῇς ἄριστον ἢ δεῖπνον, μὴ φώνει τοὺς φίλους σου
μηδὲ τοὺς ἀδελφούς σου μηδὲ τοὺς συγγενεῖς σου μηδὲ γείτονας
πλουσίους, μήποτε καὶ αὐτοὶ ἀντικαλέσωσίν
σε καὶ γένηται ἀνταπόδομά σοι. 13 ἀλλ᾽ ὅταν δοχὴν ποιῇς, κάλει πτωχούς, ἀναπείρους, χωλούς, τυφλούς· 14 καὶ μακάριος ἔσῃ,
ὅτι οὐκ ἔχουσιν ἀνταποδοῦναί σοι, ἀνταποδοθήσεται γάρ
σοι ἐν τῇ ἀναστάσει τῶν δικαίων. (Lk. 14:7-14 BGT) |
1 Chuyện xảy ra khi Đức Giêsu đi đến nhà của một
trong những thủ lãnh của những người Pharisêu vào
ngày Sabát để dùng bữa và họ cứ quan sát Người một cách cẩn thận. 7 Người nói cùng những người đã được mời một dụ
ngôn, khi quan sát thấy họ thích chọn chỗ danh dự nhất, Người nói cùng họ. 8 Khi anh được ai đó mời ăn tiệc, đừng ngồi vào chỗ danh dự nhất, kẻo có
một người đáng vinh dự hơn anh cũng được mời, 9 và người ấy đến gọi cả anh và anh ta đến mà nói
cùng anh: “Hãy trao chỗ
này cho người này”. Bấy giờ, anh sẽ bắt đầu xấu hổ khi đi xuống chỗ cuối. 10 Nhưng khi anh được mời, sau khi tiến vào, anh
cứ ngồi vào chỗ cuối, để
người đã mời anh đến nói cùng anh rằng: “Này anh bạn, hãy đi lên chỗ quan trọng hơn”. Khi
đó, anh sẽ được vinh danh trước mặt tất cả các thực khách. 11 Vì ai đề cao chính
mình sẽ bị hạ thấp, ai hạ thấp chính mình sẽ được đề
cao. 12 Rồi Người nói cùng người đã mời Người: “Khi ông
tổ chức bữa ăn hay tiệc tùng, đừng mời bạn bè của ông,
những người anh em của ông, những người họ hàng của ông, những người láng giềng giàu có, và họ cũng mời ông lại, và thế
là, ông được đền đáp. 13 Nhưng khi tổ chức tiệc tùng, hãy mời những người nghèo, những người tàn tật, những người què, và những người mù. 14 Và ông sẽ có phúc,
khi họ không có gì để đền đáp ông, vì ông sẽ được đền
đáp nơi sự sống lại của những người công chính. |
Bối cảnh
Trong bối cảnh rộng, Lc 14,1.7-14 nằm trong
số những trình thuật về hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu (9,51 – 19,27).
Trong bối cảnh hẹp hơn, đoạn văn này nằm ngay trước đoạn văn nói về “những
khách được mời chối từ” (Lc 14,15-24). Ngay trước đoạn văn này, hai đoạn văn
nói về sự chối từ: Sự chối từ của vua Hêrôđê (Lc 13,31-33) và sự chối từ của
dân thành Giêrusalem (Lc 13,34-35). Một cách tổng quát, đoạn văn 14,1.7-14, đề
cập đến những người Pharisêu từ chối Đức Giêsu khi họ “cứ dò xét Người”, đối lại
với việc Đức Giêsu mời gọi họ sống theo lối sống của Người. Cụ thể là “khiêm
nhường, tự hạ”. Mầu nhiệm tự hạ và được nâng lên là mầu nhiệm chính yếu trong
“cuộc xuất hành mà Người sẽ hoàn tất tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Nhân đức “tự hạ”,
khiêm nhường luôn là phẩm chất mà Đức Giêsu muốn các môn đệ phải có (x.Mt
18,14; 20,26 Lc 9,48; 22,26; Mc 9,35; Ga 13,1-15). Những khách mời ưu tiên cho
các bữa tiệc được Đức Giêsu đề xuất “người nghèo, người tàn tật, người què và
người mù”, cũng là những người mà ông chủ đã mời vào dự tiệc, sau khi các thực
khách đồng loạt xin kiếu, trong dụ ngôn “khách mời xin kiếu” (Lc 14,15-24). Người
nghèo, và những người đau khổ vì bệnh tật, cũng là những đối tượng được Đấng
Mêsiah nhắm đến trước tiên trong sứ vụ rao giảng và chữa lành của mình (Lc
4,18-19). Chủ đề về cánh chung liên quan đến sự sống lại của người công chính
cũng là chủ đề nối kết các bài giảng về cánh chung của Đức Giêsu trong Tin Mừng
Nhất Lãm.
Cấu trúc
Câu chuyện gồm hai phần rõ rệt, được định hình theo cấu trúc song song (ABC// A’B’C’)
Một số điểm chú giải
1. Thủ lãnh của những người Pharisêu: Nhóm
“những người Pharisêu” là một nhóm tôn giáo sùng đạo Do Thái. Pharisaios trong
tiếng Hy Lạp có nguồn gốc từ động từ “paras” trong tiếng Do Thái có
nghĩa là “tách ra”, “phân chia ra”. Đây là một nhóm những người đạo
đức, giữ luật một cách chặt chẽ, tách ra khỏi những người vô luật lệ và vô thần.
Luật lệ là trung tâm suy nghĩ và đời sống thực hành của họ. Sử gia Josephus tường
thuật rằng “những người Pharisêu đã đưa ra cho người dân một loạt những luật lệ
mà họ tiếp nối truyền thống cha ông của họ, những điều không được chép trong Luật
Môsê”. Chính vì thế mà người Sađốc phản đối những người Pharisêu, vì người Sađốc
chỉ giữ những gì được viết ra trong Luật Môsê.[1]
Vào thời Đức Giêsu, ước tính có khoảng 6000 người thuộc phái Pharisêu.
Phái này gồm có các Kinh Sư (Mc 2,16), các tiến sỹ luật và cả một số tư tế nữa.
Những ưu điểm của những người Pharisêu: Nhiệt tâm truyền giáo (Mt 23,15); Niềm
ưu tư về đời sống trọn lành, công chính (Mt 5,20)[2];
Chay tịnh (Mc 2,18; Mt 9,14; Lc 5,33). Họ ngồi trên tòa Môsê mà giảng dạy dân
chúng những lời đúng đắn (Mt 23,2). Họ quan tâm đến ngày giờ mà Triều Đại Thiên
Chúa đến (Lc 17,20). Đức Giêsu cũng từng dùng bữa tại nhà một người Pharisêu (Lc
7,36; 11,37; 14,1). Ông Phaolô cũng là một người Pharisêu thứ thiệt (23,6); Ông
Nicôđêmô cũng là một người Pharisêu. Ông đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm (Ga 3,1);
Đứng ra bảo vệ Đức Giêsu trước các lãnh đạo Do Thái (7,50) và cuối cùng táng
xác Đức Giêsu (Ga 19,39). Công vụ Tông Đồ nhắc đến một người Pharisêu nổi tiếng
có uy tín đã đứng ra bảo vệ cho ông Phêrô và các Tông Đồ trước Thượng Hội Đồng
Do Thái. Đó là ông Gamaliel (Cv 5,34-39) (Gamaliel: Chúa là phần thưởng của
tôi). Nói như thế để độc giả có một cái nhìn quân bình hơn về những người
Pharisêu trong bối cảnh Tân Ước. Các tác giả Tin Mừng rất nhiều lần mô tả
Pharisêu như là đối thủ tranh luận với Đức Giêsu nhiều vấn đề (thanh sạch, Sabát,
ăn chay, li dị…), có những âm mưu gài bẫy Đức Giêsu (Lc 11,54; Mt 22,15; Mc
12,13). Họ được mô tả như những người giả hình, sống đạo hình thức (Mc 7,6; Mt
23; Lc 12,1); Tham lam tiền bạc (Lc 16,14). Gay gắt nhất, là họ có ý định giết
Đức Giêsu (Mc 3,6). Tuy nhiên, điều lạ lùng là danh xưng này không xuất hiện
trong các trình thuật của Tin Mừng về vụ án của Đức Giêsu (khổ nạn – phục
sinh). Tin Mừng thứ tư nhắc đến một lần duy nhất (18,3). Điều này làm cho nhiều
chuyên gia tin rằng, những người Pharisêu không tham gia vào việc giết Đức Giêsu.[3]
Trong bối cảnh này, Đức Giêsu được mời đến dùng bữa. Dầu vậy, có thể thấy rằng bầu
khí không mấy thân thiện khi tác giả lưu ý rằng “họ cứ quan sát Người một cách
cẩn thận” (αὐτοὶ ἦσαν παρατηρούμενοι αὐτόν). Thời gian được ghi chú cẩn thận là
“vào ngày Sabát”. Quả thực, ngay trong bữa tiệc ấy, vào ngày Sabát, Đức Giêsu
đã chữa bệnh cho một người mắc bệnh phù thũng (14,2-6). Đức Giêsu đã hỏi họ hai
câu hỏi cố ý hợp pháp hóa cho hành vi chữa bệnh của mình: “Có hợp luật để chữa
bệnh trong ngày Sabát không?” (14,3) và “ai trong các ông có đứa con trai hay
con bò rơi xuống giếng lại không kéo nó lên ngay, dù trong ngày Sabát” (14,5).
Họ không có câu trả lời nào cho cả hai câu hỏi.
2. “Thường chọn chỗ danh dự”: Câu chuyện về
cách chọn chỗ ngồi được đặt ngay sau câu chuyện chữa lành người phù thũng trong
ngày Sabát. Lý do được người thuật chuyện giới thiệu là “vì quan sát thấy người
ta cứ chọn chỗ ngồi danh dự”.[4]
Động từ “chọn lựa” (“ἐκλέγω”) được chia ở thì vị hoàn, diễn tả sự kéo dài, hoặc thói quen, diễn
tả một xu thế, một sở thích thường thấy trong xã hội, đặc biệt là những người
lãnh đạo Do Thái, những người thích được thừa nhận và tôn trọng nơi công cộng.
Đức Giêsu từng dạy các môn đệ: “Anh em phải coi chừng những ông Kinh Sư, thích
dạo quanh trong bộ áo dài và thích lời chào nơi phố chợ” (Lc 20,46; Mc 12,38).
Đức Giêsu còn kêu than: “Khốn khổ cho các ông, hỡi những người Pharisêu, các
ông thích ngồi chỗ tốt nhất trong các hội đường và thích những lời chào nơi phố
chợ” (Lc 11,43). Danh từ “πρωτοκλισία” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “chỗ
danh dự nhất”, thường là bên cạnh chủ tiệc,[5]
“chỗ quan trọng nhất”, “chỗ tốt nhất”. Những chỗ này thường mang đến sự hãnh diện,
“nở mặt nở mày” cho thực khách hơn cả. Người Việt Nam thường dùng những danh từ
như “mâm trên”, hay “chiếu trên” để diễn tả những bàn ăn cho những người quan
trọng hơn, vinh dự hơn. Người xưa cũng thường dùng câu “một miếng giữa làng bằng
một sàng xó bếp”, để diễn danh dự của một người được đề cao giữa nơi công cộng.
3. “Đừng ngồi vào chỗ danh dự”: Đối tượng
mà Đức Giêsu nhắm đến được nói chung chung là “những người được mời”. “Những
người được mời” này rất có thể đa số là các luật sỹ và những người Pharisêu, những
người hàng xóm giàu có, cùng với những người bà con và bạn hữu của gia chủ. Đức
Giêsu dạy họ: “Đừng ngồi vào chỗ danh dự nhất”. Cấu trúc gồm một tiểu từ phủ định
“μὴ”
(cấm, không được), cùng với một động từ ở lối giả định, thể bị động “κατακλιθῇς”
(ngồi), diễn tả một lệnh cấm (μὴ κατακλιθῇς: Cấm ngồi). Lý do của lệnh tránh,
lệnh cấm là để phòng ngừa một sự bẽ mặt, xấu hổ có thể xảy ra. Giả định tình huống
là người này không biết có những nhân vật quan trọng nào được mời và có những ai
cao trọng hơn mình hay không. Giả sử có một người nào đó cao trọng hơn, đáng được
vinh dự hơn (ἐντιμότερός), người này buộc phải nhường chỗ cho người được chủ nhà
coi trọng hơn mình. Khi ấy, tình trạng éo le, sẽ xảy ra. Những lời dạy như thế,
cũng được tìm thấy trong văn chương các thầy dạy Do Thái muộn thời hơn Đức Giêsu.[6]
4. “Một người đáng vinh dự hơn”: Theo
nghĩa đen, “người đáng vinh dự hơn” trước tiên nói đến một thực khách có địa vị
quan trọng nhất trong bữa tiệc, đối với ông chủ, và cũng có thể đối với các thực
khách còn lại. Vinh dự của người này có thể đến từ địa vị cao trong xã hội, quyền
cao, chức trọng, hay sự giàu có, hoặc có mối quan hệ gần gũi nhất với chủ tiệc,
hay là một nhân vật đức cao vọng trọng trong xã hội. Dầu vậy, khi nói đến khái
niệm một người đáng vinh dự hơn, người ta cũng không quên lời giới thiệu của
ông Gioan Tẩy Giả về Đấng Mêsiah “có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến, và tôi
không đáng cởi quai xăng-đan cho Người” (Lc 3,16). Ông Gioan Tẩy Giả rõ ràng biết
vị trí của mình ở đâu và không chiếm vị trí của Đấng Mêsiah.
5. “Xấu hổ khi đi xuống chỗ cuối”: Người
khách khởi đầu bằng “chỗ ngồi quan trọng nhất” nhưng lại kết thúc bằng “chỗ ngồi
kém quan trọng nhất” (nghĩa đen là “chỗ ngồi cuối cùng”). Tình huống xảy ra hơi
lạ lùng. Nếu người này không được ngồi ở vị trí vinh dự nhất thì cũng có thể ngồi
ở vị trí ít vinh dự hơn, không nhất thiết phải đi xuống đến “chỗ cuối cùng”. Có
lẽ, cách nói này ám chỉ đến “sự xấu hổ”, “muối mặt” đến nỗi không còn mặt mũi
nào mà ngồi gần vị trí phía trên. Chỉ còn một cách là đi xuống nơi cuối cùng, để
tránh cái nhìn của mọi người.[7]
6. “Anh cứ ngồi vào chỗ cuối …hãy đi lên chỗ
quan trọng hơn”: Bí quyết Đức Giêsu chỉ dẫn cho những người khách là cứ chọn
chỗ cuối mà ngồi. Giả như, không có ai quan trọng hơn, thì gia chủ chắc chắn sẽ
mời vị khách quý lên trên vị trí danh dự nhất. Cuối cùng, người này sẽ được
vinh danh trước mặt các thực khách khác. Vinh dự là do chủ nhà dành cho chứ
không phải do mình tự kiếm mà được.[8]
Trong Tin Mừng Luca, danh từ “δόξα” (vinh quang) thường được dùng cho Thiên
Chúa: “Sứ thần Thiên Chúa xuất hiện chung quanh họ và vinh quang Chúa chiếu
sáng quanh họ” (Lc 2,9); “Vinh quang Thiên Chúa trên cõi trời cao thẳm” (Lc
2,14; Cf. Lc 19,38). Trong bối cảnh này, danh từ này có thể được hiểu như là niềm
vinh dự dành cho cho người khách được mời lên trên. Tuy nhiên, nếu nối kết với
câu kết luận: “Ai tự nâng cao mình, thì sẽ bị hạ xuống; Ai tự hạ mình thì được
nâng cao” (14,11), thì danh từ “vinh quang” có thể được hiểu cho Đức Giêsu như
là Đấng được Thiên Chúa tôn vinh, vì đã hạ mình xuống cho đến chết và chết trên
thập giá (Pl 2,8).[9] Cách
gọi của gia chủ khá lạ lùng: “φίλε”. Danh xưng này có nghĩa là “bạn”, “người
yêu”, “người phụ rể”, như trường hợp của ông Gioan Tẩy Giả (Ga 3,29). Có lẽ,
cách gọi này mang vị thực khách này lại gần hơn và vị trí ngang hàng với gia chủ.[10]
7. Đề cao … hạ thấp…hạ thấp… đề cao: Câu kết
của Đức Giêsu phù hợp với tình huống trong dụ ngôn mà Người đưa ra. Người tự ý
ngồi chỗ cuối, sẽ có cơ may được mời lên trên cao; còn người tự ý ngồi vào chỗ
danh dự nhất thì lại có nguy cơ phải nhường chỗ cho người khác và phải đi xuống
chỗ cuối.[11]
Tuy nhiên, dụ ngôn không đơn giản chỉ để dạy người ta một bài học đạo đức, về cách
thức để tránh chuốc lấy xấu hổ hay tìm thấy được vinh dự giữa nơi công cộng. Điều
quan trọng hơn là phẩm tính khiêm hạ của người môn đệ, trong hệ thống những giá
trị của công dân Nước Trời.[12]
Người môn đệ của Đức Giêsu phải tránh xa sở thích “ngồi ghế danh dự nhất trong
các hội đường” và “được người ta chào hỏi nơi phố chợ” của những người Pharisêu
(Lc 11,43). Người môn đệ của Đức Giêsu cũng không mong được người đời tôn vinh
(Ga 5,41). Giữa các môn đệ, người làm lớn hơn cả thì phải làm người phục vụ những
người còn lại và người muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ người khác. “Cũng như
Con Người đến không phải để được phục vụ mà để phục vụ và hiến dâng mạng sống
làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,26-28). Câu kết luận này được đặt trong bối cảnh
của hành trình lên Giêrusalem, nên có thể được hiểu cho chính Đức Giêsu. Quả vậy,
Người đã hạ mình xuống đến mức thấp nhất qua cuộc khổ hình và cái chết trên thập
giá, và đã được tôn vinh lên mức cao nhất, ngự bên hữu Thiên Chúa. Trong truyền
thống Cựu Ước, hạ thấp người cao và nâng cao người thấp là những hành động thường
thấy của Chúa được ngôn sứ Edêkielnói đến: “Mũ tế bị lột, vương miện sẽ bị tước.
Mọi sự đều thay đổi: Cái thấp được nâng cao, cái cao bị hạ thấp” (Ed 21,31); “Tất
cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây
cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo
được xanh tươi” (Ed 17,24).[13]
Lời cầu nguyện của bà Anna, mẹ của ông Samuel, cũng ẩn chứa những điều tương tự:
“Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc
lên cao” (1 Sm 2,7). Đức Giêsu cũng thường nói về một hình ảnh đảo ngược vị trí
cách kịch tính trong thời cánh chung: “Người ở vị trí đầu sẽ xuống vị trí cuối
và người ở vị trí cuối sẽ lên vị trí đầu” (Lc 13,30; Mt 19,30; 20,16; Mc
10,31).
8. Bạn bè … những người anh em … những người
thân … những người giàu: Sau khi hướng dẫn thực khách về cách chọn chỗ ngồi.
Đức Giêsu hướng dẫn người chủ tiệc về loại người mà mình nên mời. Trong xã hội
xưa nay, những người mà người ta thường đưa vào danh sách khách mời thường theo
thứ tự ưu tiên: “Những người anh em” (anh chị em ruột), rồi đến những người
thân (anh, chị, em, cô, dì, chú, bác… họ), bạn bè thân quen, và những người
giàu. Có lẽ, trong bữa tiệc mà Đức Giêsu đang hiện diện cũng bao gồm những
thành phần ấy. Một thói quen bình thường theo truyền thống của xã hội cổ xưa,
nhất là thói quen mời những người láng giềng giàu có, dường như ẩn chứa một sự
loại trừ những người nghèo, người không có quyền lực về thể chất lẫn vật chất
trong xã hội.[14] Vì
thế, Đức Giêsu khuyên ông đừng nên mời những loại người này. Mệnh đề gồm tiểu từ
phủ định “μὴ”, cùng với một động từ thể chủ động, lối mệnh lệnh, thì hiện tại
(φώνει),
đưa đến một kết thúc cho một điều đã tồn tại rồi. Trong bối cảnh này có thể hiểu
là: “Khi làm tiệc hay bữa ăn, đừng tiếp tục mời những người bạn, những người
anh em, những người thân xa gần, và người giàu”. Lý do Đức Giêsu đưa ra cho lời
khuyên “đừng mời … nữa” là để anh khỏi nhận được đáp lễ theo lẽ thường, vì chắc
chắn những người này sẽ mời lại.
9. Những người nghèo … những người tàn tật …
những người què … những người mù: Sau khi liệt kê một danh sách những người
mà gia chủ không nên mời nữa, Đức Giêsu cũng liệt kê danh sách những loại người
mà gia chủ nên mời. Danh sách này cũng bao gồm bốn loại ngườ, đối lại với danh
sách những người không nên mời như thói quen trước kia. “Những người nghèo” rõ
ràng đối lại với “những người giàu”. Thuật
ngữ “những người nghèo” trong Tin Mừng Luca có nghĩa rộng bao trùm tất cả
những người bị đẩy ra ngoài lề xã hội.[15]
Trong khi “những người giàu” được xếp ở vị trí sau cùng trong danh sách những
người thường được mời, thì “những người nghèo” được xếp đầu danh sách những người
thường không được mời và Đức Giêsu khuyên nên mời. Họ là thành phần được ưu
tiên trong danh sách khách mời mà Đức Giêsu đề xuất. Điều này phù hợp với lời dạy
của Đức Giêsu nơi các mối phúc. Mối phúc đầu tiên là mối phúc dành cho những
người nghèo: “Phúc cho anh em là những người nghèo vì Nước Thiên Chúa là của
anh em” (Lc 6,20; cf. Mt 5,3). Những loại người còn lại trong danh sách được đề
nghị, đều là những người cùng khổ, khiếm khuyết.[16]
Họ không có tương quan máu mủ, ruột thịt, bạn bè thân quen với gia chủ. Tuy vậy,
nên nhớ rằng, họ là thành phần được ưu tiên trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng của
Đức Giêsu: “Thần khí Chúa xuống trên tôi, Đấng mà nhờ Người, Chúa đã xức dầu
cho tôi, để loan báo Tin Mừng cho những người nghèo, Người đã sai tôi công bố sự
tự do cho những người bị giam cầm, phục hồi thị lực cho những người mù, và mang
lại sự tự giải thoát cho những người bị áp bức” (Lc 4,18). Khi ông Gioan Tẩy Giả
sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu về căn tính Mêsiah của Người, Đức Giêsu trả lời:
“Anh em cứ về nói lại với ông Gioan những điều anh em đã thấy và đã nghe: Những
người mù lãnh nhận thị giác, những người què đi được, những người cùi được sạch,
những người điếc được nghe, những người chết được sống lại và những người nghèo
được loan báo Tin Mừng cho” (Lc 7,22; Cf. Mt 15,30-31). Đức Giêsu chữa lành cho
người bị bại tay trong ngày Sabát, ngay trong đền thờ, bất chấp người ta rình rập,
tìm cách tố cáo Người (Mc 3,1-6; Lc 6,6-11; Mt 12,9-14). Trong dụ ngôn tiếp
theo ngay sau trình thuật này, thường được gọi là “khách mời xin kiếu” (Lc
14,15-24), ông chủ cũng sai đầy tớ ra “các nơi công cộng, và đường phố trong
thành mang những người nghèo, những người tàn tật, những người mù, những người
què” (Lc 14,21). Lý do Đức Giêsu đưa ra cho đề xuất mời những người cùng khổ, bất
hạnh này là vì đó là một phúc lành. Phúc lành đến từ lý do kép, vì họ không có
gì để đáp trả cho ông, và vì thế, ông sẽ được đáp trả nơi sự sống lại của những
người công chính.[17]
Khi đề xuất danh sách khách mời lạ lùng như thế, cách nào đó Đức Giêsu muốn gia
chủ thay đổi não trạng về tương quan với một con người. Nó không còn là một mối
tương quan kinh tế, dựa trên lợi ích là chính, hay thậm chí nó không còn là mối
tương quan dựa trên huyết tộc, thân quen, nhưng là mối tương quan mở rộng ra
cho những người thực sự có nhu cầu cần được quan tâm nhất.[18]
Cách nghĩ của Đức Giêsu xóa bỏ khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, cũng
như tương quan dựa trên lợi ích trong xã hội thời bấy giờ.[19]
10. “Sự sống lại của những người công chính”.
Đây là ngôn ngữ của thời cánh chung.[20]
Dĩ nhiên, cả người công chính và người bất chính đều được sống lại trong ngày
cánh chung (Cv 24,15; Đn 12,1-2). Sở dĩ, Đức Giêsu chỉ nhắc đến những người
công chính trong bối cảnh này, là vì Người muốn nhấn mạnh đến sự sống lại viên
mãn, hạnh phúc của những người này. Người công chính thật sự sẽ được sống lại
và hưởng phúc trong ngày cánh chung: “Bấy giờ người công chính sẽ chói sáng như
mặt trời trong nước của Cha họ” (Mt 13,43; Cf. 13,49); “Người công chính ra đi
để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Đức Giêsu được gọi là “người công chính”
(Mt 17,19) và ông Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cũng được gọi là “người công
chính” (Mc 6,20). Đặc biệt, trong Tin Mừng Luca, người đại đội trưởng tuyên
xưng Đức Giêsu là người công chính, khi chứng kiến Người trút hơi thở cuối cùng
trên thập giá: “Thấy sự việc xảy ra như thế, người đại đội trưởng cất tiếng tôn
vinh Thiên Chúa rằng: ‘Người này đích thực là người công chính’” (Lc 23,47),
khác với Mátthêu và Máccô: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (27,54;
15,39). Cách nói “được đền đáp cùng với sự sống lại của những người công chính”
cho thấy phần thưởng của gia chủ không còn là những giá trị tạm thời trên trái
đất nữa, nhưng là một sự sống vĩnh cửu hạnh phúc viên mãn đời sau. Phần thưởng
này gia chủ chỉ có được, khi từ nay về sau, ông phải thay đổi khách mời của
mình trong các bữa tiệc theo đề xuất của Đức Giêsu. Thói quen mời những người
nghèo khó, cùng khổ đến dùng tiệc với mình, bao hàm một sự lưu tâm chăm sóc những
loại người này một cách vô vị lợi, chứ không chỉ giới hạn trong phạm vị ăn uống,
tiệc tùng.[21]
Những người có thói quen yêu thương, chăm sóc những người cùng khổ trong xã hội
cách vô vị lợi, sẽ được chung phần với những người công chính, đáng được cấp
visa Nước Trời.
Bình luận tổng quát
Đức Giêsu được mời đến dùng bữa tại
nhà một người ban Pharisêu. Người ta cứ quan sát Người một cách cẩn thận. Vì lẽ
đó, bữa tiệc đó không chỉ là một bữa ăn bình thường, mà là một dịp để những người
không thích Đức Giêsu có thể toan tính một điều gì đó không lành mạnh.[22]
Về phía Đức Giêsu cũng vậy. Người đến đó không phải để dùng bữa mà là để thi
hành sứ vụ giảng dạy và chữa lành. Người bắt đầu món khai vị bằng việc chữa
lành cho một người bệnh phù thũng (Lc 14,1-6). Bối cảnh về thời gian “ngày Sabát”,
là một bối cảnh báo hiệu sự xung đột về việc giữ luật giữa những người Pharisêu
và Đức Giêsu. Bất chấp sự phản đối ngầm của nhóm những người Pharisêu, Đức Giêsu
vẫn thi hành sứ vụ chữa lành và chứng tỏ mình có lý khi làm như vậy. Cái lý của
Người là: (1) Ngày Sabát được phép làm điều lành, tức là chữa bệnh; (2) Ai có đứa
con trai, thậm chí là con bò rơi xuống giếng trong ngày Sabát thì cũng phải kéo
lên ngay lập tức, huống gì là giải thoát sự khổ đau cho một bệnh nhân.
Sau khi đã làm dấu lạ chữa lành,
và làm cho những người Pharisêu phải câm lặng vì lý chứng của mình, Đức Giêsu
tiếp tục trình bày những giáo huấn quan trọng của mình. Giáo huấn gồm hai phần
dành cho hai đối tượng khác nhau. Thứ nhất là bí quyết về cách chọn chỗ ngồi
trong bữa tiệc dành cho nhóm thực khách. Thứ hai, là lời đề nghị dành cho gia
chủ về những loại thực khách nên ưu tiên mời trong một bữa tiệc. Khi Đức Giêsu
quan sát thấy người ta (rất có thể là các luật sĩ và những người Pharisêu) thường
chọn vị trí danh dự nhất trong một bữa tiệc, Người liền khuyên các thực khách,
không nên chọn chỗ quan trọng nhất, mà chỉ nên ngồi vào chỗ kém quan trọng nhất.
Hai chọn lựa sẽ dẫn đến hai hiệu quả khác nhau. Nếu một thực khách nào đó cứ chọn
chỗ nhất mà ngồi thì có nguy cơ bị “quê” (bị mất mặt) trước các thực khách
khác, khi anh ta bị chủ tiệc đề nghị nhường chỗ cho nhân vật quan trọng hơn. Một
khi “ngồi nhầm ghế” thì đương sự chỉ còn có nước độn thổ. Nếu không, thì anh phải
chui xuống chỗ thấp nhất mà ngồi. Ngược lại, nếu một thực khách nào đó cứ ngồi
vào chỗ thấp nhất, thì anh lại có cơ may được chủ tiệc mời lên chỗ cao hơn trước
mặt bao nhiêu thực khách. Nhờ vậy, người này được vinh danh trước bá quan thiên
hạ. Từ câu chuyện về nghệ thuật chọn chỗ ngồi trong bữa tiệc, Đức Giêsu kết luận
một quy luật chung: “Ai tự nâng cao mình thì sẽ bị hạ thấp, còn ai tự hạ thấp
mình lại được nâng cao”. Câu kết luận chung này không còn giới hạn vào việc chọn
chỗ ngồi giữa chốn công cộng nữa, nhưng là một thái độ sống, một giá trị Tin Mừng
Nước Trời, và trên hết là mầu nhiệm cứu độ. Câu nói này được đặt trong bối cảnh
Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ nạn và chịu chết. Cuộc khổ
nạn và cái chết của Người được xem như là một sự tự hạ đến mức tận cùng và sau
đó sự phục sinh, lên trời của Người như là một sự tôn vinh hoàn hảo nhất. Hình ảnh
Đức Giêsu khiêm hạ cúi xuống rửa chân cho từng môn đệ (Ga 13,1-15) vừa là mẫu
gương của sự phục vụ yêu thương, vừa là báo trước cho cuộc khổ nạn và cái chết
của Người. Những thực khách trong bữa tiệc Nước Trời, nhất là các môn đệ đều được
mời gọi khiêm nhường, tự hạ như thế để được Thiên Chúa tôn vinh. Trong chương
trình huấn luyện của mình, Đức Giêsu đã không ngừng khuyên các môn đệ hãy cẩn
thận, đề phòng những sở thích “ngồi ghế danh dự nhất trong các hội đường, và
thích lời chào long trọng nơi phố chợ” của những người Pharisêu. Khi các môn đệ
tranh giành nhau địa vị lớn nhất, Người lại khuyên họ rằng: Ai muốn làm người lớn
nhất thì phải làm người phục vụ mọi Người.
Tiếp theo, sau bí quyết dành cho
các thực khách là lời khuyên dành cho gia chủ. Gia chủ nào cũng có thói quen mời
những người bạn thân, những người anh em, những người bà con ruột thịt và những
người hàng xóm giàu có. Lý do mà người ta có thói quen mời những người này, là
vì họ mong được đáp trả, được người ta mời lại, hoặc là được lợi ích nào đó trong
tương quan xã giao. Đức Giêsu lại khuyên, từ nay đừng mời những loại người ấy nữa,
nhưng hãy mời những người nghèo, những người tàn tật, những người què, những
người mù. Đây rõ ràng là những đối tượng không có khả năng về kinh tế, lẫn sức
lực để đáp trả lại ân tình của gia chủ và cũng không mang lại lợi ích gì trong
tương quan xã hội. Tuy nhiên, đây lại là những đối tượng khách mời mà gia chủ
có thể bày tỏ tình yêu thương vô vị lợi của mình một cách dễ dàng. Một lần nữa,
từ câu chuyện về những đối tượng khách mời cụ thể trong một bữa tiệc, Đức Giêsu
chuyển hướng đến những đối tượng để bày tỏ tình yêu thương vô vị lợi. Từ những
toan tính lợi lộc thiệt hơn về vật chất trên trần gian, Đức Giêsu giới thiệu về
một cõi phúc chân thật, lợi lộc thiên đàng, hạnh phúc vĩnh cửu. Từ những tương
quan bạn hữu, linh tông, huyết tộc, Đức Giêsu mở rộng ra mối tương quan của những
người con Chúa, không phân biệt bất kỳ ai, ở địa vị nào, trong hoàn cảnh nào.[23]
Một chủ tiệc bình thường có thể trở thành một người công chính, miễn là người ấy
biết thay đổi thành phần khách mời theo như lời đề nghị của Đức Giêsu.
Như thế, câu chuyện Đức Giêsu đi
dự tiệc không còn là câu chuyện về thưởng thức các món ẩm thực hay âm nhạc nữa,
nhưng là câu chuyện thuần túy về cách đối nhân xử thế và những giáo huấn cần
thiết cho khách hành hương trên hành trình về quê trời.
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
[1] H.
Bietenhard, The New International Dictionary of New Testament Theology Vol.2
(ed. C. Brown) (Grand Rapids 1976) “Pharisee”, 811.
[2] X.
Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh (Phân Khoa Thần Học Học Viện Piô X Đà Lạt –
Việt Nam dịch từ nguyên bản “Vocabulaire de Théologie Biblique”) (Hà Nội
1973,1974,1975) “Pharisêu”, 1039-1040.
[3] Ibid, 1039.
[4]
“Seeking out such places was also known in the Greek world” [J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV. Introduction,
translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008) 28A, 1046].
[5]
“If the host occupied the place in the middle of the horseshoe arrangement,
then he must have placed his guests of honor at his sides. Moreover, the head
of a table, as well as the middle position, when there were three couches side
by side, must have been the best places” [F.
Bovon, Luke 2. A Commentary on the Gospel of Luke
9:51–19:27 (ed. H. Koester)
(Hermeneia; Minneapolis 2013) 354].
[6]
“Similar advice is later attributed in the rabbinical tradition to R. Simeon b.
Azzai: “Stay two or three seats below your place and sit until they say to you,
‘Go (farther) up.’ Do not begin by going up because (then) they may say to you,
‘Go down.’ It is better that they should say to you ‘Go up, go up,’ than that
they should say to you, ‘Go down, go down’ ” (Leviticus Rabb. 1 [fifth century a.d.])”
(J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV.
Introduction, translation, and notes, 1046-1047).
[7]
“Because honor is socially determined, if one’s claim to honor fails to be
reciprocated by one’s audience, one is publicly humiliated” [J.B. Green,
The Gospel of Luke (NICNT; Grand
Rapids, 1997) 551].
[8] J.B. Green,
The Gospel of Luke, 552.
[9]
“Just as the Johannine Christ’s glory (the same word, δόξα, as in v. 10) shines forth in the
infamous exaltation on the cross, which is the most humiliating form of torture
(John 17:5, 24), likewise here believers, at either a secular wedding feast or
a religious one, take last place as their place” (F. Bovon, Luke 2, 355).
[10] “To be greeted as “friend” and invited higher suggests a
special intimacy and, more than that, equality with the host” [L.T. Johnson, The
Gospel of Luke (SP 3; Collegeville 1997) 224].
[11]
“The humble,” in the social world Luke addresses, usually denoted persons who
are of low birth, base, and ignoble, yet in the topsy-turvy world Jesus
envisages, “the humble” are those most valued” (Ibid.).
[12]
“The concluding verse, v. 11, like the examples in vv. 8–10, plays on the high
and the low; but, with the use of the eschatological future instead of the
immediate future, it puts the social and ethical problem into an eschatological
and theological perspective” (F. Bovon, Luke 2, 350).
[13] J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV.
Introduction, translation, and notes, 1047.
[14]
“Seen through Jesus’ eyes, however, orthodox conventions have as their
consequence the exclusion of the poor; after all, for the social elite the poor
are unhelpful in the business of parading and advancing one’s social position
and, perhaps more importantly in the current co-text, the poor could not
reciprocat” (J.B. Green, The Gospel of Luke, 553).
[15] “Note that Luke uses
"poor" as a blanket term for all those marginalized in the people” (L.T. Johnson, The
Gospel of Luke, 225).
[16]
“The first mentioned would not have the money to reciprocate (see Note on 4:18), the other three would not
have the power or capability. Three of the four (“the lame, the blind, the
crippled”) are mentioned (along with “one who has a permanent blemish in his
flesh”) as those to be excluded from the eschatological war of the “sons of
light against the sons of darkness” in the Qumran War Scroll (1QM 7:4) and also excluded from the community meal in
1QSa 2:5–6” (J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV,
1047).
[17]
“The opposition between the two ages is dominant; there is to be no retribution
in the present time, but a recompense at the resurrection of the righteous” (F. Bovon,
Luke 2, 358).
[18]
“In an excessive and paradoxical manner, the Gospel expresses an order of
priorities: the feast with the destitute and the unfortunate is more important
than familial relationships and social conventions” (F. Bovon, Luke 2, 357).
[19]
“Jesus’ message overturns such preoccupations, presenting “the poor, the
crippled, the lame, and the blind”—notable examples of those relegated to low
status, marginalized according to normal canons of status honor in the
Mediterranean world—as persons to be numbered among one’s table intimates and,
by analogy, among the people of God… The behaviors Jesus demands would collapse
the distance between rich and poor, insider and outsider; reverting to
anthropological models of economic exchange” (J.B.
Green, The Gospel of Luke, 553).
[20]
“Mention is made of eschatological retribution at the time of the resurrection”
(J.A. Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV.
Introduction, translation, and notes, 1048); J.B. Green, The Gospel of Luke, 553-554.
[21]
“Real love never reckons with recompense; and because this is so, generosity
will find its reward at the resurrection” (J.A.
Fitzmyer, The Gospel according to Luke X–XXIV.
Introduction, translation, and notes, 1045).
[22] “We are asked to remember that it was precisely these people
who had a fixed grudge against Jesus and were lying in wait to trap him in what
he said (11:53-54). As in the "warning" to Jesus in the previous
pericope (13:31-35), therefore, this pharisaic
"invitation" is hypocritical” (L.T. Johnson, The Gospel of Luke, 226)