Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy Lạp |
Việt |
30 Κἀκεῖθεν ἐξελθόντες παρεπορεύοντο
διὰ τῆς Γαλιλαίας, καὶ οὐκ ἤθελεν ἵνα τις γνοῖ· 31 ἐδίδασκεν γὰρ τοὺς μαθητὰς αὐτοῦ καὶ ἔλεγεν
αὐτοῖς ὅτι ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου παραδίδοται εἰς χεῖρας ἀνθρώπων, καὶ ἀποκτενοῦσιν
αὐτόν, καὶ ἀποκτανθεὶς μετὰ τρεῖς ἡμέρας ἀναστήσεται. 32 οἱ δὲ ἠγνόουν τὸ ῥῆμα, καὶ ἐφοβοῦντο
αὐτὸν ἐπερωτῆσαι. 33 Καὶ ἦλθον εἰς Καφαρναούμ.
Καὶ ἐν τῇ οἰκίᾳ γενόμενος ἐπηρώτα αὐτούς· τί ἐν τῇ ὁδῷ διελογίζεσθε; 34 οἱ δὲ ἐσιώπων· πρὸς ἀλλήλους γὰρ διελέχθησαν ἐν τῇ ὁδῷ τίς μείζων. 35 καὶ καθίσας ἐφώνησεν
τοὺς δώδεκα καὶ λέγει αὐτοῖς· εἴ τις θέλει πρῶτος
εἶναι, ἔσται πάντων ἔσχατος καὶ πάντων διάκονος. 36 καὶ λαβὼν παιδίον ἔστησεν αὐτὸ ἐν μέσῳ αὐτῶν καὶ ἐναγκαλισάμενος
αὐτὸ εἶπεν αὐτοῖς· 37 ὃς ἂν ἓν τῶν τοιούτων παιδίων δέξηται ἐπὶ τῷ ὀνόματί μου, ἐμὲ δέχεται· καὶ ὃς ἂν ἐμὲ δέχηται,
οὐκ ἐμὲ δέχεται ἀλλὰ τὸν ἀποστείλαντά με. (Mk. 9:30-37 BGT) |
30 và sau khi đi khỏi
đó, họ đi xuyên qua Ga-li-lê, và Người không muốn ai biết, 31 vì Người đang dạy các môn đệ của Người và nói cùng họ rằng Con Người sẽ bị nộp vào tay
của người ta, họ sẽ giết chết Người và
sau khi bị giết chết sau 3 ngày Người sẽ phục sinh. 32 nhưng họ [các môn
đệ] cứ không hiểu lời đó, và họ cứ sợ không hỏi Người. 33 và họ đi vào
Ca-phác-nao-um, và khi họ đã ở trong nhà, Người hỏi họ: “Anh em tranh cãi gì với nhau trên đường?” 34 Nhưng họ cứ im lặng, vì trên đường họ đã tranh cãi với nhau ai là người
lớn hơn cả. 35 và sau khi ngồi
xuống Người gọi nhóm Mười Hai và nói cùng họ: “Nếu ai muốn là người đứng đầu, người đó sẽ người người cuối cùng của tất cả và là người phục vụ tất cả. 36 và sau khi nhận một đứa trẻ, Người đặt nó ngay chính giữa họ và
trong khi ôm nó, Người nói cùng họ, 37 bất cứ ai đón tiếp đứa một đứa trẻ như em này vì danh của Thầy là đón tiếp
Thầy, và bất cứ ai đón tiếp Thầy, thì
không phải đón tiếp Thầy mà đón tiếp Người đã sai Thầy. |
Bối Cảnh:
Đoạn văn Mc 9,30-37 được đặt ngay sau phép lạ chữa lành một người bị thần
câm điếc nhập và bị bệnh kinh phong. Sau phép lạ này, các môn đệ đã hỏi lý
do tại sao họ không thể trục xuất được tên quỷ này. Các ông rất quan tâm đến
quyền lực trừ quỷ. Ngược lại, trong đoạn văn này khi không hiểu về lời dạy liên
quan đến mầu nhiệm khổ nạn, các ông lại sợ, không hỏi Người. Khi được
Người hỏi về chủ đề mà các ông tranh luận dọc đường, các ông lại im lặng.
Đây có thể là dấu hiệu cho thấy họ đang bị thần câm điếc nhập vào. Một
lần nữa, Đức Giê-su tiền báo về Cuộc Thương Khó – Chết – Phục Sinh. Lần
loan báo này đến sau sự kiện Đức Giê-su biến hình trên núi, và trừ quỷ. Ngay
sau sự kiện Biến Hình trên núi, để trả lời cho câu hỏi các môn đệ liên quan đến
ông Ê-li-ah, Đức Giê-su cũng nhắc đến việc “Con Người chịu nhiều đau khổ và bị
khinh rẻ” (9,12). Lần tiền báo này chắc chắn nối kết chặt chẽ với lần thứ nhất
(8,31) và lần thứ ba (10,32-34), nhất là với Mầu Nhiệm Khổ Nạn-Chết-Phục Sinh
trong 3 chương cuối của Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng Gioan. Phản ứng tiêu cực
của các môn đệ trong lần tiền báo này cũng y chang như phản ứng của họ trong
hai lần tiền báo trước và sau đó. Ngoài ra, bài học phục vụ là đặc tính
căn bản trong phong cách lãnh đạo của Đức Giê-su (Mc 9,35; 10,43; Mt 20,26;
23,11). Đức Giê-su khẳng định Người đến là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá
chuộc cho muôn người (Mc 10,45; Mt 20,28); Người sống giữa các môn đệ như một
người phục vụ (Lc 22,27). Hành động cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong đêm
Tiệc Ly là một bằng chứng sống động về cung cách phục vụ của Đức Giê-su (Ga
13,2-20). Chủ đề về sự đồng hóa giữa Đức Giê-su và những người bé mọn là
chủ đề nổi bật trong bài giảng về cánh chung. Phục vụ những kẻ đói, khát, trần
truồng, đau yếu hay ngồi tù là phục vụ Chúa (Mt 25,44-45). Sự đồng hóa giữa Đức
Giê-su và Đấng đã sai Người cũng rất phổ biến trong cả bốn Tin Mừng, đặc biệt
là Tin Mừng thứ tư (Lc 10,16; Ga 5,23; Ga 8,29; 12,44.45). Đứa trẻ đến
cùng Đức Giê-su là một điều gì đó “chướng tai tai gai mắt” với các môn đệ. Khi
người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su để Người chúc lành, các môn đệ đã la rầy
chúng. Đức Giê-su phải can thiệp, họ mới để chúng yên (Mt 19,13; Mc 10,13). Đứa
trẻ thành đối tượng căn bản cho hành vi thực thi quyền lực phục vụ của các môn
đệ. Đứa trẻ cũng là một chủ đề khá phổ biến trong các sách Tin Mừng. Chúng được
xem như là những người thừa kế Nước Trời (Mc 10,14; Mt 19,14; Lc 18,16).
Cấu Trúc: Đoạn
Mc 9,3-37 gồm hai đoạn nhỏ khác nhau nhưng nối kết chặt chẽ với nhau. Đoạn I
(9,30-32): Đức Giê-su tiền báo về khổ nạn – chết – phục sinh và phản ứng của
các môn đệ. Đoạn II (9,33-37): Đức Giê-su dạy dỗ các môn đệ dựa trên phán ứng
tranh giành quyền lực.
I. Bối cảnh:
Không gian, nhân vật, giới thiệu sự kiện (9,30) Dạy về Thương Khó – Chết – Phục Sinh
(9,31) Đáp trả của
các môn đệ: Không hiểu – Sợ - Không dám hỏi (9,32) II. Bối cảnh:
Không gian và nhân vật (9,33a) Câu
hỏi của Đức Giê-su: “Anh em tranh cãi gì với nhau trên đường?”
(9,34a) Đáp trả của
các môn đệ: Im lặng vì
đã tranh cãi về vị trí đứng đầu (9,34b) Dạy về quyền lực: Người đứng đầu = Người
cuối cùng = Người phục vụ (9,35) Dạy về sự đón tiếp: Đón tiếp đứa trẻ =
Đón tiếp Đức Giê-su = Đón tiếp Chúa Cha (9,36-37) |
Một số điểm chú giải
1. Người
không muốn ai biết: Sự bí mật, và riêng tư là một yếu tố khá nổi bật trong
cả ba lần Đức Giê-su tiền báo về Cuộc Khổ Nạn. Lần thứ nhất, trong Mác-cô và
Mát-thêu, tuy không có dấu hiệu rõ ràng về mặt ngôn ngữ cho thấy Người dẫn các
ông riêng ra một nơi, nhưng cuộc đối thoại cho thấy chỉ có các môn đệ và Đức
Giê-su mà thôi (Mc 8,27-33; Mt 16,21-23; Lc 9,18-22). Sau khi kết thúc mạc khải
về cuộc Thương Khó, Đức Giê-su mới gọi “các môn đệ và đám đông đến mà dạy rằng:
“Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác lấy thập giá của mình mà theo” (Mc 8,34).
Trong Mát-thêu, ngay cả lời dạy này cũng dành riêng cho các môn đệ, đám đông
không hề xuất hiện (Mt 16,24). Luca cho thấy dấu hiệu rõ rệt rằng hôm ấy, Đức
Giê-su đang cầu nguyện một mình và các môn đệ cũng ở đó với Người (Lc
9,18). Ở lần tiền báo thứ hai, dấu hiệu về sự bí mật là quá rõ ràng “Người không
muốn để ai biết” (Mc 9,30; Mt 17,22; Lc 9,44). Không gian riêng tư của các môn
đệ và Đức Giê-su kéo dài từ 9,30-50. Dân chúng lại xuất hiện khi Đức Giê-su đi
từ miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan (10,1). Đây là khoảng thời gian Đức Giê-su
dành riêng để dạy các môn đệ.[1] Lần thứ ba cũng vậy, trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su dẫn các môn đệ riêng ra, rồi bật mí
về cuộc Thương Khó lần thứ 3 (Mc 10,32; Mt 20,17; Lc 18,31). Như thế, mạc khải
về mầu nhiệm này chỉ dành riêng cho các môn đệ, những người đã nhận ra căn tính
Ki-tô nơi Đức Giê-su, tuy chưa trọn vẹn. Đó cũng là một bí mật cần được bật mí
để giúp các môn đệ hiểu đầy đủ hơn về “căn tính Ki-tô” ấy, nếu không các ông cứ
mãi ảo tưởng về một Đấng Ki-tô vinh quang sáng chói.
2. Người
đang dạy các môn đệ của Người. Nói theo kiểu bình dân là Đức Giê-su “bật
mí” mầu nhiệm cuộc khổ nạn trong “bí mật”. Trong “bí mật” vì chỉ có một mình
các môn đệ biết. Nói đúng ngôn ngữ Thánh Kinh là “Đức Giê-su đang dạy các môn đệ”.
Động từ dạy được nhấn mạnh độ dài về mặt thời gian khi được dùng ở thì “vị
hoàn” (chưa hoàn thành). Người đã bắt đầu dạy cho các môn đệ về mầu nhiệm Khổ nạn
– Tử nạn – Phục Sinh lần thứ nhất (Mc 8,31), bây giờ Người vẫn đang giảng dạy
cùng một mầu nhiệm (Mc 9,31); Người lại tiếp tục dạy họ lần thứ ba nữa, khi thầy
trò trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Mc 10,32-34). Có thể nói rằng, từ lúc Phê-rô
đại diện cho các môn đệ tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Người bắt đầu dạy
cho các ông về mầu nhiệm Khổ-Tử nạn – Phục Sinh. Người dạy mãi cho đến sau khi
sống lại và lên trời. Trong giai đoạn này, Người tiếp tục “gia cố” cho niềm tin
của các môn đệ bằng cách vẫn làm những dấu lạ, đặc biệt là cuộc “Biến Hình”
trên núi cao (Mc 9,2-8; Mt 17,1-8; Lc 9,28-36). Tuy nhiên, điều chính yếu là
Người dạy các ông về khía cạnh “tự hủy” của Đấng Ki-tô.
3. Bị
nộp – giết chết – phục sinh: So sánh ba lần tiền báo, chúng ta có thể nhận
thấy rằng dường như lần thứ hai là đơn giản hơn cả và lần thứ ba chi tiết hơn cả.
Có hai điều không thể thiếu trong cả 3 lần. Đó là “chết” và “phục sinh”. Phục
sinh luôn luôn là hành trình cuối cùng của mầu nhiệm này và có ý nghĩa quyết định
soi sáng cho toàn bộ hành trình đau khổ của Đức Giê-su. Tuy vậy, các môn đệ dường
như quên hẳn chi tiết đáng để ý này. Họ cũng không hiểu “từ cõi chết sống lại
nghĩa là gì” (Mc 9,10) Trong cả ba lần Đức Giê-su đều tự xưng là “Con Người”.[2] Đây cũng là một trong những
danh hiệu “ki-tô học” đặc trưng trong thần học Tân Ước. Đức Giê-su tự gọi mình
là “Con Người” rất nhiều lần. Trong tiếng Hy Lạp, “Con Người” nghĩa là “Con
trai của loài người” (ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου). Trong Cựu Ước, thuật ngữ
này được dùng để chỉ loài người [בֶן־אָ֜דָ֗ם]
(ben-adam): “Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm” (Tv 8,4). Đây là danh xưng
được dùng trong văn chương khải huyền. Ngôn sứ Ê-dê-kiel cũng được Thiên Chúa gọi
là “con người” (Ed 21,1.6; 8,8; 11,4; 12,2.18). Đặc biệt Đn 4,13 nói đến một thị
kiến trong đó, ngôn sứ thấy “có ai như Con Người đang ngự giá mây trời mà đến”.
Trong Tân Ước, Đức Giê-su cũng nói đến hình ảnh Con Người rất uy nghi, vinh hiển,
ngự giá mây trời mà đến (Mt 24,30; Mt 16,27; 26,44; Mc 13,26; 14,62). Đó là những
hình ảnh về Con Người vinh quang, đến để xét xử loài người. Tuy nhiên, ở đây
chúng ta thấy một Con Người chịu nộp và chịu chết rồi mới phục sinh. Con Người
cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm giống như ông Giô-na (Mt 12,40). Thánh
Gioan nói đến hình ảnh Con Người được giương cao với hai ý nghĩa: (i) Treo trên
thập giá; (ii) Siêu thăng lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,34) và sự kiện Con Người
được tôn vinh (Ga 12,23; 13,31). Con Người mang hai ý nghĩa rõ nét, vừa đau khổ
và vừa vinh quang. Mệnh đề “sẽ bị nộp cho người đời” trong bối cảnh này tương
đương với “họ sẽ nộp Người cho dân ngoại”. Như vậy, tác nhân nộp Đức Giê-su cho
“người đời” hay “dân ngoại” chính là các thượng tế và kinh sư (x. 15,1.10).[3] Lần tiền báo thứ ba còn nhắc
đến Người bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Tác nhân của hành động nộp này
không ai khác chính là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai (Mc
10,10-11; Mt 26,14-16; Lc 22,3-6). “Những bàn tay” thường được sử dụng cả trong
các nguồn Do Thái hoặc ngoài Do Thái diễn tả quyền lực của một Người. Cụm từ
“rơi vào tay của ai đó” có nghĩa là chịu sự điều khiển của người đó.[4] Nộp cho người đời là một mối
nguy hiểm đáng sợ nhất. Trong Cựu Ước, sau khi vua Đa-vít phạm lỗi nặng, vì đã
kiểm tra dân số, Đức Chúa giáng họa và cho ông chọn lựa 3 giải pháp: (1) Đói
kém bảy năm trên toàn nước; (2) Ba tháng chạy trốn trước mặt kẻ thù; và (3) Ba
ngày ôn dịch. Đa-vít đã chọn lựa giải pháp thứ ba và nói cùng ngôn sứ Gát rằng:
“Thà tôi rơi vào tay Thiên Chúa thì hơn, vì lòng thương của Người bao la, ước
chi tôi đừng rơi vào tay người đời” (2 Sm 24,14). Sách Huấn Ca cũng dạy rằng:
“Chúng ta sẽ rơi vào tay Đức Chúa, chứ đừng vào tay người đời, vì Người cao cả
thế nào thì hay thương xót như vậy” (Hc 2,18). Bị nộp vào tay người như trường
hợp của Đức Giê-su quả thật là khốn đốn.
So
sánh ba lần tiền báo về cuộc khổ nạn – chết – Phục Sinh |
||
8,31 |
9,31 |
10,33-34 |
Nhất
thiết là… Con Người Phải
đau khổ nhiều và bị chối bỏ Bởi
các kỳ mục, thượng tế và kinh sư Bị giết chết Và
sau ba ngày Người sẽ trỗi dậy |
Con Người Sẽ bị nộp cho người đời Họ sẽ
giết Người Và
sau ba ngày Người sẽ trỗi dậy |
Con Người Sẽ bị nộp Cho
các thượng tế và kinh sư Họ sẽ kết án tử hình Người Nộp Người cho dân ngoại Và họ
sẽ đánh Người, khạc nhổ vào Người và hành hạ Người Và họ
sẽ giết Người Và
sau ba ngày Người sẽ trỗi dậy |
4. Cứ không hiểu lời đó: Lời
này quả là khó hiểu đối với các môn đệ. Nhưng lạ thay, đây là lần thứ hai Đức
Giê-su nói điều này sao các ông lại không hiểu. Thánh Mát-thêu ghi chú rằng
“các môn đệ buồn phiền quá đỗi” (Mt 17,23). Điều đáng nói là dù không hiểu các
ông lại sợ hỏi lại Người. Cả hai động từ “không hiểu” (ἠγνόουν) và “sợ”
(ἐφοβοῦντο)
đều được dùng ở thì “vị hoàn” (chưa hoàn thành). Tác giả muốn nói rằng họ không
hiểu triền miên, dài lâu và họ cũng “sợ” dài lâu. Các môn đệ cứ không hiểu như
thế và không dám hỏi như thế, cho đến khi Đức Giê-su bước vào hành trình thập
giá. Sự không hiểu, sự sợ hãi lại biến thành hành động “bỏ trốn hết” của các
môn đệ (Mc 14,50; Mt 26,56). Nỗi sợ của các môn đệ có thể là nỗi ám ảnh sẽ bị
quở trách như ông Phê-rô trong lần tiền báo đầu tiên. Đức Giê-su đã quở trách
Phê-rô cách nặng nề khi gọi ông là Satan. Lần này, rút kinh nghiệm, các môn đệ
dù không thích, không muốn, không hiểu nhưng tốt hơn nên im lặng như không nghe
thấy gì cho xong chuyện.[5] Họ có thể hy vọng điều đó
không xảy ra vì nếu nó ra cho Đức Giê-su thì cũng xảy ra cho họ.[6] Sự “không hiểu” của các môn
đệ trong đoạn văn này như nối dài chủ đề về “sự bất ổn trong tâm hồn” (cứng
lòng) của các môn đệ được bắt đầu trước đó: “Vì họ không hiểu về những chiếc
bánh, nhưng lòng họ bị cứng” (6,52); “Anh em vẫn chưa hiểu sao? Lòng anh em còn
cứng vậy sao?” (Mc 8,17).[7]
5. Tranh
cãi xem ai là người lớn hơn cả: Trong Mát-thêu, các môn đệ hỏi trực tiếp Đức
Giê-su về vị trí lớn nhất trong Nước Trời. Từ đó, Đức Giê-su dạy các ông về bài
học về sự tự hạ: “Nên như đứa trẻ” (Mt 18,1-4). Mác-cô cố tình đặt câu hỏi này
trong một cuộc tranh luận âm thầm giữa các môn đệ, ngay sau khi Đức Giê-su tiền
báo về cuộc khổ nạn. Có một nghịch lý có chút gì đó mỉa mai trong phản ứng của
các môn đệ. Sau khi nghe lời tiền báo lần thứ hai về mầu nhiệm Khổ nạn – Chết –
Phục sinh, các môn đệ không những không hiểu, sợ không hỏi Người mà còn tranh
luận sôi nổi với nhau về địa vị lớn nhất trong nhóm. Đó là dấu hiệu cho thấy một
giấc mộng quyền lực đang len lỏi, xâm chiếm tâm hồn các môn đệ. Đây chính là phản
ứng tréo ngoe, đặc trưng cho cả ba lần Đức Giê-su tiền báo về mầu nhiệm tự hủy
trong Tin Mừng Mác-cô. Lần thứ nhất, Phê-rô đã kéo riêng Đức Giê-su ra và can
gián Người và Đức Giê-su đã phải khiển trách Phê-rô là: “Satan! xéo đi ra đằng
sau Thầy” (Mc 8,33). Lần thứ hai, trong khi Người mạc khải về mầu nhiệm tự hủy,
thì các môn đệ lại tranh luận với nhau xem “ai là người quyền to hơn cả”. Lần
thứ ba, cũng liên quan đến địa vị quyền chức, hai người con của ông Dê-bê-đê đến
xin Đức Giê-su hai vị trí bên hữu và bên tả Người, khi Người được vinh quang
(Mc 10,37). Mười môn đệ còn lại thấy mình bị lép vế thì “đâm ra tức tối với ông
Gia-cô-bê và Gioan” (Mc 10,41). Những phản ứng của các môn đệ trong cả ba lần Đức
Giê-su tiền báo về mầu nhiệm tự hủy, cho thấy rằng ý định của Đức Giê-su quá
khác xa với giấc mơ của họ. Họ không thể hiểu, và cũng không muốn hiểu ý định
nhiệm mầu ấy, bởi họ vẫn đang theo đuổi giấc mộng quyền lực trần thế của riêng
mình.[8]
6. Cứ
im lặng: Động từ thinh lặng được chia ở thì vị hoàn, diễn tả một sự thinh lặng
dài lâu. Đó là một sự thinh lặng vì xấu hổ, bởi cách nghĩ của họ còn quá khác với
Thầy của mình. Sự im lặng này có chút liên hệ đến quỷ câm làm cho cậu bé phải
im lặng trong phép lạ trước đó (Mc 9,25). Các môn đệ đã không trừ được tên quỷ
này, và theo Đức Giê-su, lý do là vì họ thiếu sự cầu nguyện. Sự thinh lặng của
các môn đệ cũng liên hệ gần gũi đến sự thinh lặng không hỏi Đức Giê-su, về mầu
nhiệm mà Người vừa mạc khải. Đó là một thái độ mâu thuẫn của các môn đệ. Điều cần
phải nói thì họ không nói, điều không nên nói thì họ lại tranh luận sôi nổi.
Tuy vậy, sự im lặng biểu lộ sự xấu hổ ở đây, suy cho cùng vẫn nhẹ hơn cách mà
Gia-cô-bê và Gioan đến xin ngồi bên tả và bên hữu, sau khi Đức Giê-su tiền báo
cuộc thương khó lần thứ ba, hay là phản ứng cách trực diện như Phê-rô trong lần
thứ nhất. Sự thinh lặng của các môn đệ trong bối cảnh này, có thể gợi nhớ đến sự
im lặng ngượng ngùng của dân chúng nơi hội đường Ca-phác-nao-um, nơi Đức Giê-su
đã hỏi họ về việc được phép làm điều tốt vào ngày Sa-bát hay chăng (Mc 3,4).[9]
7. Người
đứng đầu – Người phục vụ. Đứng trước phản ứng tiêu cực của các môn đệ, Đức
Giê-su lại tìm cách sửa dạy họ. Trong lần tiền báo thứ nhất, khi Phê-rô can
gián Đức Giê-su, Người đã quở trách ông cách nặng nề. Hơn nữa, Người dạy cho
các môn đệ và dân chúng thấy sự cần thiết phải từ bỏ chính mình, vác lấy thập
giá của mình mà theo Chúa. Đích điểm cuối cùng là “sự sống đời” cả hồn lẫn xác.
Muốn có sự sống này, sự hy sinh là một điều gì đó tất yếu phải có dành cho những
người theo Chúa. Lần này, các môn đệ tranh nhau về quyền làm thủ lãnh. Đức
Giê-su lại dạy họ phải thi hành quyền bính thế nào. Đức Giê-su không phủ nhận
việc phải có kẻ dưới người trên trong một cộng đoàn. Điều quan trọng là “người
đứng đầu” (πρῶτος) phải là “người cuối cùng” (ἔσχατος) của mọi người và là
“người phục vụ” (διάκονος) của tất cả mọi người. Đây có thể được
gọi là “quyền lực không quyền lực”. Một cách tương tự, trong lần tiền báo thứ
ba về cuộc khổ nạn, đối lại với ước mong ngồi bên hữu bên tả của các môn đệ, Đức
Giê-su cũng dạy họ về bài học phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải
làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ (δοῦλος)
mọi người” (Mc 10,43-44). Danh từ “đầy tớ” còn có nghĩa mạnh hơn về sự thấp kém
so với người “phục vụ”. Đây chính là danh xưng mà Đức Maria dùng để tự xưng
mình trước mầu nhiệm cao cả của Chúa: “Này tôi là tôi tớ của Chúa, xin Chúa hãy
làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38; cf. 1,48). Người môn đệ của Chúa
không nhắm đến quyền lực cho bằng sự hy sinh phục vụ người khác. Điều này khác
hẳn với văn hóa “ăn trên ngồi trốc”, “kẻ làm lớn thì có quyền làm láo” trong xã
hội xưa nay. Đối với cộng đoàn môn đệ của Đức Giê-su thì không phải thế. Đức
Giê-su đã cho biết mục đích của Người là đến để phục vụ, chứ không phải để được
người ta phục vụ (Mc 10,45; Mt 20,28). “Người ở giữa các môn đệ như là một người
phục vụ” (Lc 22,27).[10] Hình ảnh sống động nhất
cho sứ vụ phục vụ của Đức Giê-su là hình ảnh Người cúi xuống rửa chân cho tất
các Tông Đồ trong bữa tiệc ly. Tuy nhiên, mức độ cao nhất của hành động phục vụ
của Đức Giê-su chính là “hiến dâng mạng sống mình vì muôn người”. Thánh Phao-lô
diễn tả mầu nhiệm tự hạ của Đức Giê-su như là Người đã tự hóa ra không, khi mặc
lấy hình dáng của một “tôi tớ” (Pl 2,7).
8. Một
đứa trẻ (παιδίον): Một đứa trẻ là một sinh linh bé bỏng không đáng kể
trong cái nhìn của các môn đệ.[11] Chính vì thế, khi thấy người
ta đem trẻ em đến với Đức Giê-su, các môn đệ đã không ngần ngại la rầy chúng
trước mặt Đức Giê-su (Mc 10,13; Mt 19,13). Đức Giê-su đã đáp trả rằng: “Cứ để trẻ
em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như
chúng” (Mc 10,14; Mt 19,14; Lc 18,16). Người còn nói rằng: “Ai không đón nhận
Nước Thiên Chúa với một tâm hồn trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,17; Mc
10,15). Trong bối cảnh này, đứa trẻ là một người tiêu biểu để minh họa cho đối
tượng mà các môn đệ phải phục vụ, nếu muốn có quyền lực cao. Một đối tượng mà
người ta xem thường thì lại được Đức Giê-su coi trọng. Đó là triết lý tình yêu
của Đức Giê-su.
9. Dây
chuyền đón tiếp: Đón tiếp đứa trẻ - Đón tiếp Đức Giê-su – Đón tiếp Chúa
Cha. Đón tiếp một đứa trẻ vì danh Đức Giê-su là biểu hiện căn bản cho hành động
phục vụ của một người muốn làm lớn. Đức Giê-su đồng hóa chính mình với một người
bé nhỏ nhất, có địa vị thấp kém nhất trong xã hội. Hành động “ôm lấy đứa trẻ”
có thể là một hành động biểu tượng của một sự nhận làm con nuôi, bởi vì những sự
nhận con nuôi thời xưa đôi khi bao gồm cử chỉ nhấc đứa bé lên, ôm lấy nó, hoặc
mang nó vào sự tiếp xúc với cơ thể của cha mẹ nuôi.[12] Đức
Giê-su cũng đồng hóa chính mình với các môn đệ khi Người bảo đảm rằng: “Ai đón
tiếp anh em là đón tiếp Thầy, ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”
(Mt 10,40; Ga 13,20). Đối lại với thói quen coi trọng người có quyền thế, khinh
người nghèo hèn, hay còn gọi là lối ứng xử “thượng đội hạ đạp”, “cá lớn nuốt cá
bé”, Đức Giê-su dùng lối nói dây chuyền “bộ ba” đối tượng để nối kết từ người
thấp kém nhất trong xã hội cho đến Chúa Cha. Hay nói cách khác, những người bé
mọn nhất trong xã hội chính là hình ảnh của chính Chúa. Đức Giê-su đã có lúc tạ
ơn Chúa Cha, vì đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời không phải cho những người khôn
ngoan thông thái, nhưng cho đứa bé (người đơn giản, ngây thơ) (Mt 11,25; Lc
10,21). Người cũng khuyên các môn đệ chớ “khinh thường một ai trong những kẻ bé
mọn này [đứa trẻ], vì Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ trên trời
không ngừng chiêm ngưỡng nhan cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10). Người
cũng cảnh báo rằng: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn [những đứa trẻ]
đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn mà xô cho chìm xuống đáy
biển còn hơn” (Mc 9,42; Mt 10,6). Cuối cùng, ví dụ sống động nhất cho việc đồng
hóa giữa Đức Giê-su và những người cùng khổ là hình ảnh cuộc phán xét do
Mát-thêu ghi lại, trong đó, cho người đói ăn, cho người khát uống, tiếp đón
khách lạ, mặc cho người trần truồng, thăm người bệnh và tù nhân được xem như là
những hành động của người công chính dành cho chính vị quan tòa Giê-su (Mt 25,
31-40). Ngược lại, chối bỏ, làm lơ trước những đau khổ của những người cùng khổ
này chính là chối bỏ chính Chúa (Mt 25,41-46).
Bình luận tổng quát
Lại một lần nữa
Đức Giê-su dạy các môn đệ về mầu nhiệm khổ nạn-chết-phục sinh. Đức Giê-su đi
riêng với họ, không cho ai biết, để trong không gian riêng tư, Người dạy cho
các ông hiểu mầu nhiệm quan trọng. Tuy nhiên, mặc cho Người cố tạo bối cảnh
nghiêm túc, riêng tư, lại một lần nữa các môn đệ tỏ ra thờ ơ, và mù tối với mầu
nhiệm quan trọng mà Người đang dạy dỗ. Họ không hiểu gì cả, nhưng lại chẳng hỏi
Người. Mà họ cũng chẳng mấy quan tâm. Thầy vừa tỏ mình sáng láng trên núi cao
cùng với Ông Mô-sê và Ê-li-a. Thầy cũng vừa mới trừ quỷ câm điếc gây ra bệnh
kinh phong, phép lạ mà họ không thể làm được. Thầy của họ quyền năng như thế,
thì việc “thăng quan tiến chức” chẳng bao lâu sẽ xảy ra. Vậy thì, điều quan trọng
lúc này là phân chia quyền lực cho rõ ràng: Ai lớn hơn và ai nhỏ hơn trong nhóm
của họ là điều đáng quan tâm nhất. Đức Giê-su trở nên cô đơn, lạc lõng trong lời
dạy của mình, bởi vì trong khi Thầy nói một chuyện, trò lại bàn về chuyện khác,
mặc dù trên con đường ấy chỉ có Thầy-trò đồng hành bên nhau. Đức Giê-su đoán biết
họ đã thảo luận sôi nổi về chuyện gì trên đường đi, mặc dù họ cứ thinh lặng,
như bị quỷ câm ám khi Đức Giê-su hỏi họ. Người lại tiếp tục dạy họ về cách sử dụng
quyền bính. Chắc họ phải cảm thấy xấu hổ, vì Thầy của họ đã khám phá ra chuyện
bí mật tranh giành quyền lực giữa họ. Quyền lực của người môn đệ của Đức Giê-su
là thứ “quyền lực không quyền lực”. Thực thi quyền lực đồng nghĩa với việc phục
vụ người khác. Ai càng có quyền lớn thì càng phải phục vụ nhiều. Ai muốn đứng đầu
thì phải trở thành người nhỏ nhất. Eo! Vậy thì giành quyền để mà làm gì? Các
môn đệ có lẽ nghĩ thầm như thế. Đúng thế, trong cộng đoàn của Đức Giê-su chỉ có
những con người “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”, những con người
“ở giữa anh em như một người tôi tớ”. Nếu Đức Giê-su cũng ham mê quyền lực như
họ, thì Người đã không tự hủy ra không để mặc lấy thân tôi tớ, trở nên giống phàm
nhân, sống như người trần thế. Mức độ phục vụ của Người là phục vụ cho đến chết
và chết trên thập giá. Các môn đệ phải tập sống mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm tự
hủy bằng cách đón nhận tất cả mọi người, bắt đầu từ người có vị trí thấp kém nhất,
những người mà họ cho là không đáng để đến cùng Đức Giê-su. Đó là những đứa trẻ,
những kẻ bé mọn. Có nghĩa là họ phải đón tiếp tất cả mọi người nhất là những
người bé mọn bằng cả tấm lòng của mình. Họ phải chuyển từ giấc mơ quyền lực
thành giấc mơ được phục vụ. Chỉ trong những hành vi phục vụ như thế, họ mới gặp
gỡ chính Thầy của mình và gặp gỡ chính Chúa.
Đại dịch Cô Vy
đã tước đi nhiều sinh mạng nhưng cũng làm hồi sinh biết bao con tim biết nghĩ,
biết lo, biết thổn thức, biết nghĩ đến người khác, để rồi cách này, cách khác họ
ra sức hành động vì người khác, những người đau khổ vì bệnh tật, những người “đói
cơm thiếu áo”, vì dây chuyền những chỉ thị cách ly bất chấp dài dằng dặc chưa
có hồi kết. Có những người hy sinh vì bổn phận nghề nghiệp, vì tương quan người
thân, xóm làng. Tuy vậy, cao cả nhất, đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất vẫn là những
người đã và đang hy sinh vì nghĩa vụ tình người. Họ có thể chẳng có chuyên môn
nghề nghiệp, họ cũng chẳng có ràng buộc nào về nghề nghiệp, cũng không ràng buộc
máu mủ ruột thịt, bạn bè, bà con, xóm làng. Mối giây ràng buộc duy nhất và bền
chặt nhất là tình người. Họ cố gắng duy trì nối kết từ một trái tim đến một
trái tim khác, không cần nghĩ người đó là ai, hay ở đâu, làm gì. Trong hành
trình nối kết từ trái tim đến trái tim ấy đã có biết bao người hy sinh. Một nữ
tu chi hơn 30 tuổi đời đã bỏ lại quãng đời tu thơ mộng thánh thiêng để về với
Chúa, sau khi đã đi đến cuối hành trình nối kết tình yêu. Đó chỉ là một hình ảnh
tượng trưng cho biết bao nhiêu con người đã và đang liều mình đi vào chốn hiểm
nguy, vì yêu thương những người bé mọn. Hơn bao giờ hết, bài học tự hủy để phục
vụ của Đức Giê-su trở nên thiết thực và gần gũi với mỗi con người, nhất là những
ai muốn dấn thân theo Người.
Sự đón tiếp và
phục vụ tất cả mọi người từ những người bé mọn nhất, không có địa vị xã hội, là
biểu hiện của quyền lực tình yêu. Trong các mối tương quan thường ngày, người
ta thường “nhất bên trọng, nhất bên khinh”; hay “chọn lựa và loại trừ”. Người
ta chỉ chọn lựa tương giao đón tiếp những ai mang lại lợi ích cho họ, hoặc những
người đem đến niềm vui cho họ. Họ xây những hàng rào khoanh vùng những nhóm người
trong tương quan của mình. Đó là luận lý dựa trên lợi ích và cảm xúc. Luận lý
tình yêu thì không phải thế, bởi trong tình yêu người ta được mời gọi mở rộng
con tim để đón tiếp tất cả mọi người nhân danh Đức Ki-tô. Mỗi người đều được mời
gọi đem đến niềm vui và lợi ích cho người khác thay vì mong chờ lãnh nhận niềm
vui hay lợi ích mà người khác mang lại. Luận lý tình yêu xem ra ngược đời và
khó thực hiện, nhưng nó lại là lý tưởng cao sâu nhất cho tương quan tình người,
tình gia đình Thiên Chúa. Cộng đoàn của các môn đệ xưa kia, và của các ki-tô hữu
ngày nay phải là một cộng đoàn của một dây chuyền phục vụ lẫn nhau. Ước gì mỗi
cá nhân đều mang nơi mình ý muốn phục vụ và trao chính thân mình cho người
khác. Giả như một cộng đoàn (dòng tu, gia đình, giáo xứ…) bao gồm tất cả các
thành viên như thế thì quả là “Nước Cha đã trị đến” và mang hạnh phúc viên mãn
cho thế gian rồi.
Lm. Joseph Phạm
Duy Thạch, SVD
[1] J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark (SP 2; Collegeville 2002) 283.
[2] X. R.H.F, “son of man”, The
HarperCollins Bible Dictionary (ed. P.J. Achtemeier) (New York 1996)
1053-1054.
[3] J.R. Donahue – D.J.
Harrington cho rằng tác nhân của động từ bị động “bị nộp” này chính là Giu-đa.
Tuy nhiên, cách hiểu này xem ra không hợp lý, bởi Giu-đa chỉ nộp Đức Giê-su cho
các thượng tế và kinh sư, chứ không nộp cho người đời. Người đơi đây rất có thể
ngụ ý là tổng trấn Phi-la-tô. J.R. Donahue – D.J. Harrington cũng đề nghị một
tác nhân về mặt thần học cho động từ này. Đo chính là Thiên Chúa. Đức Giê-su bị
nộp theo kế hoạch của Thiên Chúa như đã được nói trong Is 53,6.12 (J.R. Donahue
– D.J. Harrington, The Gospel of Mark, 283); “in Dan 7:25–27 LXX, in
which “the holy ones of the Most High,” who are linked with the “one like a son
of man,” are “turned over to the hands” of their enemy until the moment of
eschatological vindication” [J. Marcus, Mark 8–16. A New
Translation with Introduction and Commentary (AYB; New Haven –
London 2008) XXVII A, 667].
[5] R. France claims that
“their reluctance on this occasion because they could guess that the answer
would be one they would not want to hear, especially after the alarming
response which followed Peter’s questioning of the previous such pronouncement”
[R.T. France, The Gospel Of Mark. A Commentary on The Greek Text (NIGTC; Grand
Rapids 2002) 372].
[6] Being afraid to ask him “suggests
that they did not want to hear about Jesus’ being handed over and killed. If he
is handed over and killed, the same could happen to them” [A.Y. Collins – H.W. Attridge, Mark. A
Commentary on the Gospel of Mark (Hermeneia; Minneapolis 2007) 441].
[8] Xem thêm J.P.D. Thạch, “Kẻ
Cô Đơn Trên Con Đường Thập Tự”, [LỜI
BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (ῥήματα ζωῆς αἰωνίου): KẺ CÔ ĐƠN TRÊN CON ĐƯỜNG THẬP TỰ
(josephpham-horizon.blogspot.com)] (Truy cập 15/09/2021)
[9] J.R. Donahue – D.J. Harrington,
The Gospel of Mark, 284.
[10] Các Giáo Hoàng từ thời
Giáo Hoàng Gregory I (590-604), gần nhất là giáo hoàng Gioan Phao-lô II, thường
gọi mình là “servus servorum Dei” (Tôi Tớ của các tôi tớ Chúa). Trong một buổi
đọc Kinh Truyền Tin 22/08/1999, Đức Gioan Phao-lô II đã nói rằng bổn phận của
giáo hoàng là phục vụ Giáo Hội và nhân loại, đó là lý do tại sao mà từ xưa ngài
được biết đến như là “Servus Servorum Dei” [Angelus,
22 August 1999 | John Paul II (vatican.va)].
[11] “In first-eentury Palestinian society a child would
symbolize not so much innocence or unspoiledness as lack of social status and
legal rights. A child was a "non-person" totally dependent on others
for nurture and protection, and of course one could not expect to gain anything
either socially or materially from kindness to a child.” (J.R. Donahue – D.J.
Harrington, The Gospel of Mark, 285); “The child represents the lowest
order in the social scale, the one who is under the authority and care of
others and who has not yet achieved the right of self-determination” (R.T. France, The Gospel Of
Mark, 374).
No comments:
Post a Comment