Bản văn và dịch sát nghĩa
Việt |
Hy Lạp |
1 Khi nhìn thấy đám đông, Người đi lên núi, và khi Người ngồi
xuống, các môn đệ của Người đến cùng Người 2 Người mở miệng và bắt đầu dạy họ rằng: 3 Hạnh phúc cho những người nghèo nơi tinh
thần, vì Nước Trời là của họ 4 Hạnh phúc cho những người đau buồn, vì họ
sẽ được ủi an 5 Hạnh phúc cho những người tử tế, vì họ sẽ
sở hữu miền đất 6 Hạnh phúc cho những người đang đói và khát sự công chính, vì họ sẽ được no thoả 7 Hạnh phúc cho những ai có lòng thương xót,
vì họ sẽ được xót thương 8 Hạnh phúc cho những người tinh tuyền nơi trái tim, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa 9 Hạnh phúc cho những người xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa 10 Hạnh phúc cho những người bị bách hại
vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ 11 Anh em là những người hạnh phúc khi người ta xúc phạm và bách hại anh em và nói những điều xấu xa chống lại
anh em vì Ta. 12 Hãy vui mừng và hân hoan vì phần thưởng của anh em trên trời thật nhiều,
bởi lẽ, họ cũng đã bách hại các ngôn sứ trước anh em như vậy. |
1 Ἰδὼν δὲ τοὺς ὄχλους ἀνέβη εἰς τὸ ὄρος, καὶ καθίσαντος αὐτοῦ προσῆλθαν αὐτῷ οἱ μαθηταὶ αὐτοῦ· 2 καὶ ἀνοίξας τὸ στόμα αὐτοῦ ἐδίδασκεν αὐτοὺς λέγων· 3 Μακάριοι οἱ πτωχοὶ τῷ πνεύματι,
ὅτι αὐτῶν ἐστιν ἡ βασιλεία τῶν οὐρανῶν. 4 μακάριοι οἱ πενθοῦντες,
ὅτι αὐτοὶ παρακληθήσονται. 5 μακάριοι οἱ πραεῖς,
ὅτι αὐτοὶ κληρονομήσουσιν τὴν γῆν. 6 μακάριοι οἱ πεινῶντες καὶ διψῶντες τὴν δικαιοσύνην, ὅτι αὐτοὶ χορτασθήσονται. 7 μακάριοι οἱ ἐλεήμονες, ὅτι αὐτοὶ ἐλεηθήσονται. 8 μακάριοι οἱ καθαροὶ τῇ καρδίᾳ,
ὅτι αὐτοὶ τὸν θεὸν ὄψονται. 9 μακάριοι οἱ εἰρηνοποιοί,
ὅτι αὐτοὶ υἱοὶ θεοῦ κληθήσονται. 10 μακάριοι οἱ δεδιωγμένοι ἕνεκεν δικαιοσύνης, ὅτι αὐτῶν ἐστιν ἡ βασιλεία τῶν οὐρανῶν. 11 μακάριοί ἐστε ὅταν ὀνειδίσωσιν ὑμᾶς καὶ διώξωσιν καὶ εἴπωσιν πᾶν πονηρὸν καθ᾽ ὑμῶν
[ψευδόμενοι] ἕνεκεν ἐμοῦ. 12χαίρετε καὶ ἀγαλλιᾶσθε,
ὅτι ὁ μισθὸς ὑμῶν πολὺς ἐν τοῖς οὐρανοῖς· οὕτως γὰρ ἐδίωξαν τοὺς προφήτας τοὺς πρὸ ὑμῶν. (Matt. 5:1-12 BGT) |
Bối cảnh
Mt 5,1-12 là phần
đầu tiên trong bài giảng đầu tiên thường được gọi là “bài giảng trên núi”, một
trong năm bài giảng chính yếu của Đức Giêsu theo cấu trúc của Tin Mừng thứ nhất.
Phần này thường được gọi là “Tám mối phúc”. Theo truyền thống nguồn văn, các mối
phúc một, hai, bốn và tám, cùng với phần mở rộng mối phúc thứ tám của Tin Mừng Mátthêu,
có cùng nguồn với bốn mối phúc của Tin Mừng Luca, với khá nhiều điều chỉnh riêng
của hai tác giả.[1] Chủ đề “Nước
Trời” như là phần thưởng tối hậu được nhắc đến hai lần trong tám mối phúc, cũng
như những cách nói tương tự “nhìn thấy Chúa”; “sở hữu đất”, “phần thưởng trên
trời” là những chủ đề chính yếu trong giáo huấn của Đức Giêsu. Đức Giêsu khởi đầu
sứ vụ rao giảng công khai bằng lời mời gọi: “Hãy hoán cải vì Nước Trời đã đến gần”
(Mt 4,17; Cf. 3,2; 10,7) và đóng lại thời kỳ rao giảng công khai bằng câu chuyện
phán xét cánh chung (Mt 25,31-46), trong đó, “những người ở bên phải” được thừa
hưởng vương quốc, hưởng sự sống đời đời, còn “những người ở bên trái” phải chịu
cực hình muôn kiếp. Những chủ đề còn lại trong các mối phúc như “khó nghèo”, “công
chính”, “bách hại” cũng là những chủ đề chính yếu trong bài giảng trên núi nói
riêng và Tin Mừng Mátthêu nói chung. Bài giảng này được xếp liền sau sự kiện Đức
Giêsu tuyển chọn bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4,18-22) và phần giới thiệu về đám đông
khắp nơi đến với Người (Mt 4,25) . Đức Giêsu muốn đưa ra những chỉ dẫn làm nền
tảng cho căn tính và lối sống của người môn đệ Chúa, con đường dẫn đến Nước Trời.
Mt 5,3-6 |
Lc 6,20-23 |
3 Hạnh phúc cho những người nghèo về mặt
tinh thần, vì Nước Trời là của họ 4 Hạnh phúc cho những người đau buồn, vì họ
sẽ được ủi an 5 Hạnh phúc cho những người tử tế, vì họ sẽ
sở hữu miền đất 6 Hạnh phúc cho những người đang đói và khát sự công
chính, vì họ sẽ được no thoả |
“Hạnh phúc cho những
người nghèo, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Hạnh phúc cho những
người bây giờ đang đói, vì anh em sẽ được no thoả. Hạnh phúc những
người bây giờ đang khóc, vì anh em sẽ vui cười. Anh em là những
người có phúc khi người ta ghét bỏ anh em, và loại trừ anh em, ngược đãi anh
em và loại tên anh em, như kẻ xấu xa, vì Con Người. Hãy vui mừng và nhảy lên
trong ngày đó, vì này, phần thưởng của anh em ở trên trời thật nhiều, vì cha ông
của họ cũng làm cho các ngôn sứ những điều ấy.” |
Cấu trúc
Mt 5,1-12 gồm có ba phần. Phần thứ nhất (cc.1-2) là phần bối
cảnh không gian, nhân vật, sự kiện cách tổng quát. Phần thứ hai, phần chính
(cc.3-10) là một cấu trúc inclusio, được mở và đóng bằng cụm từ “vì Nước Trời là
của họ”. Phần thứ ba (cc. 11-12), là phần mở rộng về mối phúc tứ tám, liên quan
đến “sự bách hại vì đức công chính”.
Bối cảnh (1-2) Các mối phúc Người nghèo … Nước Trời là của họ
(3) những người đau buồn … sẽ được ủi an (4) những người tử tế
… sẽ sở hữu miền đất
(5) người đang đói và khát sự
công chính …sẽ được no thoả (6) những người có lòng thương
xót… sẽ được xót thương (7) những người tinh tuyền nơi trái tim, … sẽ nhìn thấy Thiên Chúa (8) những người xây dựng hoà
bình… sẽ được gọi là
con Thiên Chúa (9) Người bị bách hại vì sự công chính … Nước Trời là của họ (10) Mở rộng mối phúc thứ tám Bị bách hại … vì Đức
Giêsu (11) Phần thưởng trên trời
thật nhiều Họ cũng đã bách hại các
ngôn sứ (12) |
Nếu dựa trên cụm
từ “sự công chính”, thì có thể chia các mối phúc thành hai nhóm, mỗi nhóm kết
thúc bằng mối phúc liên quan đến sự công chính. Nhóm I (cc.3-6), kết thúc bằng:
Hạnh phúc cho nhựng người đói và những người khát sự công
chính, vì họ sẽ được no thoả (5,6). Nhóm II (cc. 7-10), kết thúc bằng: “Hạnh
phúc cho nhựng người bị bách hại vì sự công chính,
vì Nước Trời là của họ”.
Một số điểm chú
giải
1.
Người đi lên núi… ngồi xuống … bắt đầu dạy: Không gian trên núi[2]gợi
nhớ đến không gian của núi Sinai, nơi đó, ông
Môsê cũng đã lãnh nhận và trao ban Lề Luật cho dân Giao Ước. Cùng với cách
cấu trúc sách Tin Mừng gồm năm bài giảng, tác giả Mátthêu nhắc nhớ những người
tín hữu, thấm nhuần truyền thống Do Thái về bộ Ngũ Thư (Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi,
Dân Số, Đệ Nhị Luật), những người vốn xem năm cuốn sách đầu tiên của bộ Sách Thách
như là sách của ông Môsê, hình ảnh Đức Giêsu lên núi và ngồi xuống mang đậm nét
hình ảnh của một ông Môsê. Tác giả Mátthêu dường như muốn nói với các tín hữu gốc
Do Thái rằng: Đây là hình ảnh ông Môsê mới, người ban truyền Luật Chúa. Nhận dạng
này là rất quan trọng, và mang nhiều ý nghĩa đối với các tín hữu gốc Do Thái, vì
trong truyền thống Cựu Ước, không có ai có tầm ảnh hưởng lớn như ông Môsê. Khác
với tác giả Mátthêu, tác giả Luca lại diễn tả Đức Giêsu đi xuống, và đứng ở chỗ
đất bằng. Tác giả Luca dường như không để ý gì đến hình ảnh Đức Giêsu như là một
ông Môsê mới. Tuy nhiên, Đức Giêsu của Mátthêu không phải là hình bóng của ông Môsê.
Người vượt xa ông Môsê về vị thế và uy quyền. Nếu như ông Môsê phải lên núi bốn
mươi ngày để lãnh nhận Luật từ Thiên Chúa, thì Đức Giêsu ban truyền Lề Luật của
chính Người. Sự trổi vượt của Lề Luật và Đức Giêsu ban tặng sẽ được nhấn mạnh bằng
công bố của Đức Giêsu rằng Người đến là để kiện toàn, hoàn tất Lề Luật (Mt 5,17).
Lời nói này được minh chứng bằng sáu cặp phản đề đặc trưng của Đức Giêsu của
Tin Mừng Mátthêu (Mt 5,21-34): “Anh em đã nghe điều được
viết cho người xưa rằng … còn Thầy, Thầy bảo anh em…”. Hai phản đề đầu
tiên đề cập ngay đến Thập Điều (5,21.27). Tư thế “ngồi”, cùng cùng với động từ “dạy”[3]
rõ ràng giúp cho ngươi Do Thái nhận ra tư cách giảng dạy của Đức Giêsu một cách
rõ ràng. Tư thế ngồi trong Tin Mừng Mátthêu vừa là tư thế người dạy (5,1; 13,2 ;
24,3) vừa là tư thế của người xét xử (19,28 ; 25,31 ; 26,64). Đức Giêsu
của Mátthêu là một thầy dạy của năm bài giảng quan trọng: Bài giảng trên núi
(Mt 5 – 7); Bài giảng về sứ vụ (Mt 10); Bài giảng bằng các dụ ngôn (Mt 13); Bài
giảng về đời sống Giáo Hội (Mt 18); Bài Giảng về thời cánh chung (Mt 24 – 25).
Trong bài giảng cánh chung, Người tự bạch mình như là một quân vương trở lại
trong vai trò xét xử.
2.
Các môn đệ … đám đông: Thính giả của Đức Giêsu trong buổi giảng
dạy long trọng này trước tiên là “các môn đệ”, cụ thể là nhóm bốn môn đệ đầu tiên
mà Người vừa tuyển chọn (Mt 4,18-22). Kế đến là mở rộng ra cho toàn thể “đám đông”.
Đám đông này là những người đến từ Bắc (Galilê, và Thập Tỉnh), đến Nam (Giêrusalem,
Giuđêa), ra các vùng lãnh địa ngoài Palestine, được nói đến trong Mt 4,23-25. Phần
4,23-25 được xem như là phần giới thiệu cho bài giảng trên núi vì nó giới thiệu
nhóm thính giả “đám đông”. Đám đông này là một thành phần tổng hợp các nhóm người
rộng khắp trong ngoài vùng đất Palestine.
3.
μακάριος (hạnh phúc thay): Được dùng 9 lần trong đoạn văn
này. Vì vậy, nếu tính theo lần xuất hiện của chữ “phúc thay”, thì có 8+1 mối phúc,
nhưng nếu tính theo phúc lành được hưởng thì chỉ có tám, hay đúng ra là chỉ có bảy,
vì phúc lành “Nước trời là của họ” được lặp lại hai lần. Còn “phần thưởng trên
trời thật nhiều” chỉ là cách nói chung cho tất cả. Trong tiếng Hy Lạp cổ điển, μακάριος được dùng để diễn tả sự hạnh phúc cao nhất
của các vị thần, mà cuộc sống của họ được giải thoát khỏi những hạn chế của cực
nhọc và sự chết. Nó cũng dùng cho những anh hùng đã khuất, những người có được hạnh
phúc như các vị thần. Mô hình mối phúc liên hệ đến Tv 1: “Hạnh phúc thay [ אַ֥שְֽׁרֵי][4]
người chẳng đi theo lời khuyên của những kẻ xấu” là công bố một cá nhân hay
giai cấp đang ở trong tình trạng hạnh phúc. Xin Chúc mừng![5]
4.
Những người nghèo về mặt tinh thần: Tác giả Luca nói cụ thể là “những người
nghèo” (οἱ πτωχοὶ), trong khi đó tác giả Mátthêu thêm một cụm
từ bổ nghĩa, giải thích cho danh từ “những
người nghèo”: τῷ πνεύματι. Cụm từ này được nhóm CGKPV hiểu là “Tinh
thần nghèo khó”. Tương tự, Tác giả Nguyễn Thế Thuấn dịch là “Tinh thần khó nghèo”,
bản dịch Anh ngữ, Ý ngữ hiểu là “in spirit” (ESV), “in spirito” (CEI). Thật không
dễ để hiểu tác giả Mátthêu muốn nói gì khi dùm cụm từ này. Có tác giả hiểu rằng
“nghèo vì tinh thần”, nghĩa là những người làm cho chính họ nghèo đi vì bận tâm
đẩy mạnh, chú trọng đến điều kiện tinh thần của họ. Hoặc là “trong lãnh vực, về
khía cạnh tinh thần”.[6]
Cũng có thể hiểu cụm từ này theo ý nghĩa kép: Sự nghèo, tình trạng nghèo về vật
chất, làm cho họ trở nên đau khổ về tinh thần.[7]
Hiểu theo nghĩa nào đi nữa, cái nghèo là một tình trạng thúc bách người ta trông
chờ, cậy nhờ đến Thiên Chúa. “Những người nghèo” thời Isaiah (Is 40-55) là những
người đang sống trong nơi lưu đày, không có đất. Cách hiểu này phù hợp với mối
phúc “vì họ sẽ sở hữu miền đất”. Vào thời Đức Giêsu nó trở thành một “tước hiệu
danh dự” dành cho những tín hữu của dân Cha, những người chấp nhận cuộc sống khó
khăn mà Người đã mời gọi họ.[8]
Trên thực tế, Đức Giêsu mời gọi một lối sống đơn giản hết mức: “Con chồn có
hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20; Lc 9,58);
Nếu như họ thu tích được của cải thì họ được mời gọi “hãy bán hết tất cả những
gì anh có và cho người nghèo” (Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22; 19,8); Trên hết, họ
được mời gọi đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể, lấy
gì mà mặc (Mt 6,25; Lc 12,22); “Trước tiên, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người, còn những thứ còn lại Người sẽ ban thêm cho” (Mt 6,33).
Nói chung, “người nghèo về tinh thần” nói đến những người túng quẩn về kinh
tế, chính trị, xã hội, những người tượng trưng cho “những người nghèo” của Thiên
Chúa trong Cựu Ước. Sự nghèo đói của họ khốn khổ đến mức tinh thần của họ bị đè
bẹp. Họ không còn hy vọng vào bất cứ điều gì hay tin vào ai nữa. Từ bối cảnh cụ
thể của Tin Mừng Mátthêu, họ có thể được xem như những người bị áp bức bởi ách
độ hộ của Roma và ách tôn áo của Truyền thống Rabbi của Do Thái giáo.
5.
Nước Trời … thừa kế đất … phần thưởng nhiều trên trời …
nhìn thấy Chúa: Cái phúc của người nghèo là vì Nước Trời là của họ. Như đã đề cập đến
trong phần bối cảnh, “Nước Trời” là một đề tài trọng yếu trong Tin Mừng của Đức
Giêsu nếu không muốn nói là quan trọng nhất. Đó là mục tiêu cho toàn bộ quá trình
hoán cải của con người: “Hãy hoán cải vì Nước Trời đã đến gần”. Tác giả Mátthêu
dùng hai khái niệm để diễn tả cùng một thực tại “Nước Trời” và Nước Thiên Chúa.
Trong khi tác giả Máccô và Luca chỉ dùng danh xưng “Nước Thiên Chúa”, tác giả Mátthêu
có khuynh hướng hay dùng danh xưng “Nước Trời” (35 lần), có lẽ để tránh kêu
danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, tác giả không muốn loại bỏ hoàn toàn cách dùng của
tác giả Máccô (Nước Thiên Chúa: Mt 4 lần; Mc 14 lần; Lc 32 lần). Trong bối cảnh
“Tám mối phúc”, khái niệm “Nước Trời” có vai trò đóng khung. Cụm từ này vừa mở đầu
vừa kết thúc “tám mối phúc”. Vì thế, có thể nói rằng, nó phúc lành tổng thể cho
mọi phúc lành khác trong tám phúc lành là “vì Nước Trời là của họ”. Người nghèo
tuyên bố là người hạnh phúc vì “Nước Trời là của họ”; “vì Nước Trời là của họ”
cũng là lý do cho niềm hạnh phúc của những người bị bách hại vì đức công chính.
Những phúc lành như “Nhìn thấy Thiên Chúa”, “Phần thưởng nhiều trên trời”, “được
sở hữu đất” cũng là những cách thức diễn tả về người sở hữu Nước Trời. Sở hữu Nước
Trời thì sẽ có phần thưởng nhiều ở trên trời, được nhìn thấy tôn nhan Chúa, được
sở hữu đất Chúa ban. Phúc lành “Nước Trời là của/ thuộc về họ” được mô tả bằng
cách khác như “đi vào Nước Trời/ Thiên Chúa” (Mt 5,20 ; 7,21 ; 19,24 ;
21,31 ; Mc 9,47); dự tiệc trong Nước Trời (Mt 8,11); Tìm kiếm Nước Thiên
Chúa (Mt 6,33)
“Người nghèo trong tinh thần”, những người hoàn toàn
không có gì trong thế giới này được tuyên bố như những ông chủ của sự giàu có tốt
nhất có thể trong Nước Trời. Đây cũng là phần thưởng dành cho những người sống
công chính – bị bách hại (5,10). Người nghèo được Nước Trời vì họ phụ thuộc
hoàn toàn vào Chúa, vua của Nước Trời. Bách hại vì sống công chính là thành
viên Nước Trời vì họ thực thi những luật lệ của Nước Trời (x. Mt 5,6.20.45;
6,33).
6.
Những người đau buồn: Những người “đau buồn” (tác giả Luca dùng động từ “khóc”). Động từ πενθέω nghĩa là đau buồn, sầu khổ, phàn nàn, khóc than. Người đau buồn có thể hiểu
theo hai nghĩa. Thứ nhất, đó là những người đau buồn vì những đau đớn vì bệnh tật,
nghèo đói, bị áp bức. Thứ hai, đó là những người đau buồn, hối hận vì những lỗi
lầm của mình. Loại đau buồn thứ nhất có thể tìm thấy trong chính tám mối phúc: Đau
buồn của những người nghèo theo chiều kích tinh thần, những người bị bách hại. Liên
hệ với bối cảnh của Is 61,2: “Công bố một năm hồng ân của Chúa và ngày báo oán
của Chúa, để an ủi tất cả những ai đau buồn.” Những người đau khổ ở đây là những
người trở về sau lưu đày, phải đối diện với bao nhiều vấn đề: Những thành phố
hoang tàn, những người dân xấu hổ, mất danh dự. Những vết thương vẫn chưa lành.
Tình huống tương tự ở đây: Dân Chúa bị bắt bớ (5,11-12); Những kẻ xấu chống lại
người công chính (2,1-13; 7,15-20; 21,12-13). Người công chính không biết làm
gì hơn ngoài khóc than.
Được ủi an không phải là những phần thưởng về vật
chất nhưng là sự hiệp thông với Chúa. Ladarô được an ủi khi ở trong lòng tổ phụ
Ápraham, trên Nước Chúa (x. Lc 16,25). παρακληθήσονται (sẽ được ủi
an): Thì tương lai của động từ này nói đến một sự an ủi cánh chung, an ủi mức
cao nhất cho những mất mát của người cùng khổ.
7.
Những người tử tế, hiền lành: Tính từ “πραΰς” vừa có nghĩa là tử tế, tốt lành, vừa có nghĩa là hiền lành. Tính cách “hiền
lành” đi kèm với phần thưởng “sở hữu miền đất” có liên hệ gần gũi với Tv 37,11:
“Nhưng người hiền lành sẽ thừa kế đất và vui sướng trong sự giàu có dồi dào”. Tv
37 diễn tả số phận và hành vi của người công chính và kẻ xấu. Người hiền lành được trình bày trong như những
người khiêm tốn trong nghĩa bị áp bức, trung thành và hy vọng trong Chúa. Đức
Giêsu được gọi là “hiền lành” trong Mt 11,29 và 21,5: Hiền lành và khiêm nhượng
trong lòng; Đức vua hiền lành ngồi trên lưng lừa. Đức Giêsu hiền lành, không khắt
khe như những thầy dạy trong Mt 23,2-7; Hiền lành như vị vua yêu thương, hiến mạng
vì thần dân. “Thừa kế miền đất” ở đây có lẽ không tách rời khỏi phần phúc “được
có Nước Trời”, hay là phần thưởng nhiều trên trời. Hiền lành ở đây cũng có thể
có liên hệ chặt chẽ với thái độ của những người bị bách hại vì đức công chính.
Một cách diễn tả của sự hiền lành được nói đến trong phản đề về điều luật: “Mắt
đền mắt, răng đền răng”, trong đó Đức Giêsu dạy rằng: “Đừng chống cự người ác,
trái lại, ai vả má bên phải, thì hãy đưa cà má bên kia nữa” (Mt 5,36 ; Lc
6,29).
8.
Thừa kế miền đất: Khi nói về “thừa kế miền đất”, độc
giả Do Thái liền nhớ đến những truyền thống Cựu Ước liên quan đến miền đất hứa. Chúa hứa ban đất cho Ápraham (St 12,7). Ông
Giôsuê dẫn đưa dân Israel vào đất hứa (Canaan). Được đất hứa là phần phúc quan
trọng của Israel như là dân Chúa (Đnl 1,8.21.39; 4,1.38; 16,20). Tv 37,9.11: Ai
chờ đợi Chúa sẽ thừa kế đất; người hiền lành sẽ thừa kế đất. Động từ “thừa kế”
ngụ ý tương quan cha – con. Con thừa kế tài sản của cha.
9.
Đói và khát sự công chính: Động từ “đói” và “khát” diễn tả sự ước muốn mạnh
mẽ cho những nhu cầu thể lý bình thường, giúp cho con người duy trì mạng sống. Trong
Cựu Ước, “sự công chính” được hiểu theo những nghĩa sau. (1) Hành vi hay hoạt động
của nhân loại. Đó là những hoạt động hợp pháp, đạo đức, trung thành với Giao Ước,
vâng lời Torah (St 15,6; Đnl 9,4.5.6; Ed 3,20; 18,34). (2) Hoạt động của Chúa. Đó
là sự công chính của Người về luật lệ, đạo đức, cứu độ (Đnl 33,21; Tl 5,11; 1
Sm 12,7). Trong Tân Ước, “sự công chính” có thể được hiểu theo hai nghĩa sau.
(i) Nhân loại: Hành động theo Lề Luật, theo ý Chúa (Mt 13,17.49; 25,37); (ii) Thiên
Chúa: Thiên Chúa công chính trong sự thương xót, trung thành với ý muốn cứu độ;
hoàn tất lời hứa (Rm 3,26; 2 Tm 4,8; Kh 16,5). Trong bối cảnh của Tin Mừng Mátthêu,
có thể nói đến những cách hiểu về sự công chính như sau. Mt 5,10, nói đến người
bị bắt bớ vì sự công chính. Nghĩa là bị bắt bớ vì chính Đức Giêsu và vì sống
theo những lời Người dạy. Mt 5,20, mời gọi một sự công chính vượt hơn các kinh
sư và Pharisêu. Nghĩa là, sự công chính không không phải là kết quả đương nhiên
của việc giữ Luật nhưng là sống tương quan tình yêu với Cha và với tha nhân. Mt
6,33 khuyên rằng hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Sự công
chính ở đây có thể là hoạt động cứu độ; hay là luật lệ của vương quốc mà Chúa
Cha đòi hỏi.
Sự công chính trong bối cảnh của bài giảng trên núi là sự công chính “hơn
các kinh sư và Pharisêu” và mục đích là “được vào Nước Trời”. Đói và khát sự
công chính là ao ước sâu xa của các môn đệ nhằm hoàn thành tất cả đòi hỏi của
Chúa. Cụ thể hơn đây là tất cả những cam kết cho “sự công chính” họ làm chứng
và trải nghiệm trong cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu. Người đói và khát sự công
chính cũng là người mong mỏi hoạt động cứu độ của Chúa, công lý của Người
10.
Những người có lòng thương xót: Lòng thương xót trong Thánh Kinh, căn
bản hướng về hai đối tượng: (1) Người lỗi lầm cần được tha thứ (Xh 34,6-7; Is
5,7; Mt 18,32-34); (2) Người thiếu thốn cần được giúp đỡ (Tv 86,15-16; Mc
10,47). Trong Lc 6,36, Đức Giêsu mời gọi là “hãy có lòng thương xót như Cha anh
em hay xót thương. Lòng thương xót của người môn đệ phải tương ứng với thái độ
và hành động của Cha. Trong Mt, Đức Giêsu nhắc đến hai hình ảnh “lòng thương xót”
và “lễ vật”. Trong Mt 9,13, Đức Giêsu nhắc nhở những người Pharisêu là: “hãy đi
và học cho biết điều này: “Ta muốn lòng thương xót chứ không phải lễ vật”. Câu
này được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu đến đồng bàn với nhưng nhừng thu thuế và
những người tội lỗi và những người Pharisêu đã đặt vấn đề với các môn đệ của Người:
“Tại sao thầy của các ông lại ăn với những người thu thuế và những người tội lỗi”
(Mt 9,10-11). Thương xót trong bối cảnh này là thương xót, tha thứ đối với người
tội lỗi và thu thuế. Trong “lời cầu nguyện của Chúa” (hay còn gọi là Kinh Lạy Cha),
Đức Giêsu đã dạy rằng: “Xin tha thứ cho chúng con, như chúng con cũng tha cho
những người có lỗi với chúng con”. Sau đó Đức Giêsu chốt lại: “Nếu anh em tha cho
người khác những lỗi lầm của họ, thì Cha trên trời sẽ tha thứ cho anh em, nhưng
nếu anh em không tha cho người ta những món nợ của họ, thì Cha anh em cũng không
tha cho nhựng món nợ của anh em” (Mt 6,14-15). Trong bối cảnh tranh luận về luật
giữ ngày Sabát, Đức Giêsu lại nhắc lại câu này: “Ta muốn lòng thương xót chứ
không phải lễ vật” (Mt 12,7). Lòng thương xót trong bối cảnh này có lẽ là thái độ
thờ phượng Chúa thật tâm, chứ không phải chỉ giữ Luật.
Người
biết thương xót cho thấy sự quan tâm và lòng trắc ẩn với người thiếu thốn. Giúp
họ ra khỏi tình trạng đau khổ. Họ phản ánh tấm lòng của Chúa chấp nhận những
người đau khổ, lỗi lầm. Họ từ bọ thói quen xét đoán và tha thứ cho người lỗi lầm.
Họ cũng được Chúa xót thương; đây là quà tặng hơn là mục đích của hành vi xót
thương.
11.
Được nhìn thấy Chúa:
Nhìn thấy Chúa là một phúc lành và không được nhìn thấy Chúa là sự khốn khổ. Được
thấy Chúa là mục tiêu của kẻ sống ngay lành: “Những kẻ sống ngay lành được
chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 11,7). Niềm khao khát của vịnh gia: “Bao giờ con
đước đến, vào bệ kiến Tôn Nhan?” (Tv 42,3). Nhìn thấy Chúa nghĩa là được ở trước
nhan Người, trải nghiệm vinh quang của Người. Đó là một sự kiện cánh
chung cho những ai thanh tẩy, thánh hiến lòng mình.
12.
Được gọi là con Thiên Chúa: Dân Israel được gọi là con Thiên Chúa, dân riêng của Chúa, Đấng đã chọn họ
và giao ước với họ (Xh 4,22; Đnl 14,1; Hs 10,1). Trong Mt 5,44, Đức Giêsu dạy:
Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người bắt bớ anh em, để anh em có thể là
những người con của Cha anh em trên trời”, vì Cha cho mưa xuống trên người lành
cũng như kẻ dữ, Khi được làm con, người
ta được chia sẻ bản tính Thiên Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Người. Họ cũng
chia sẽ sứ vụ của Chúa, mang Tin Vui cho nhân loại
13.
Bách hại vì sự công chính: Mối phúc thư tám không nói về một thái độ nhưng là một thực tại đau khổ. Thì
hoàn thành của động từ “διώκω” (οἱ δεδιωγμένοι) diễn tả hành động đã diễn ra và hậu quả vẫn
tiếp diễn (những người đã bị bách hại). Tác giả thư thứ nhất Phêrô nói rằng “Nếu
anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc” (1 Pr 3,14). Sự bách
hại được lặp lại hai lần và nối kết từ quá khứ đến hiện tại, từ sự bách hại các
ngôn sứ, đến sự bách hại các môn đệ.
Phần thưởng Nước
Trời: Giống như mối phúc đầu tiên. Họ đã dấn thân cho những giá trị của Tin Mừng.
Đó là sống công chính, theo lối sống của Đức Giêsu. Vì thế, họ được hưởng
Nước Trời.
14. Bách
hại …vì ta: Trong phần mở rộng (cc. 11-12), Đức Giêsu dùng ngôi thứ hai số
nhiều, nhắm trực tiếp đến các môn đệ. Người diễn giải mối phúc thứ tám, nói về
sự bách hại, như xỉ vả, và vu cáo tất cả
những điều xấu xa. Đối tượng cho những chịu đựng này không còn là sự công chính
mà là chính Đức Giêsu: “vì Thầy”. Đó là tổng thể những đau khổ mà cộng đoàn các
môn đệ phải chịu vì Đức Giêsu. Những người bị bách hại chia sẻ số phận của Đức
Giêsu. Các môn đệ bị trao cho các hội đồng, mang đến trước vua chúa quan quyền
(10.17-18). Thậm chí, các thành viên trong gia đình của họ cũng chống lại họ
(10,21-22.35-36). Qua sứ vụ của họ, họ tham dự vào những đau khổ của Đức Giêsu
và đồng hóa với Người khi mang thập giá (10,38; 16,24).
Phần thưởng lớn lao trên trời: Là sự đón nhận chung cuộc
vĩnh viễn vương quốc với tư cách là con cái Thiên Chúa, bởi những người theo Đức
Giêsu, những người đang bị khinh bỉ, ghét bỏ vì sự công chính và vì Đức Giêsu và
lời Người.
Bình tổng quát
Sau khi tuyển chọn
bốn môn đệ đầu tiên, Đức Giêsu bắt đầu công bố hiến chương, hiến luật, về Nước
Trời, dành cho những người muốn trở thành những công dân của Nước Trời. Đối tượng
mà Người nhắm đến là các môn đệ đầu tiên, cùng toàn thể cư dân trên vùng đất Palestine
từ Bắc chí Nam. Không gian trên “núi”, cùng với tư thế “ngồi”, và hành động “dạy”,
làm cho những người gốc Do Thái không khỏi tưởng nhớ về hình ảnh ông Môsê, vị
ngôn sứ vĩ đại đã từng thấy Chúa mặt giáp mặt, đã dẫn họ vượt qua biển Sậy và từ
trên núi Sinai, đã lãnh nhận và công bố thánh Luật cho họ, trong đó có Thập Điều.
Tuy nhiên, ở đây, còn hơn ông Môsê nữa, vì Đức Giêsu giảng dạy như một Đấng có
uy quyền. Người sẽ làm tròn đầy Luật do ông Môsê công bố. Đức Giêsu của tác giả
Mátthêu thể hiện vài trò thầy dạy một cách rõ rệt khi Người giảng đến năm bài,
tương ứng với năm cuốn sách đầu tiên của Sách Thánh Cựu Ước (Ngũ Thư). Bát Phúc
được đóng khung bởi phần thưởng Nước Trời, và được chia làm hai phần đánh dấu bằng
hai thái độ sống liên quan đến đức cộng chính: “Đói và khát sự công chính”
(5,6) và “bị bách hại vì đức công chính” (5,10). Điều mà người môn đệ phải đói
và khát là sự công chính, và điều mà họ phải hy sinh thân mình để sống vì, cũng
là đức công chính. Sự công chính mà người môn đệ theo đuổi, phải là sự công chính
vượt trên sự công chính của các kinh sư và Pharisêu. Nghĩa là, một sự công chính
của tình yêu và lòng thành tín, chứ không phải chỉ là thực thi Lề Luật cách cứng
nhắc. Sự công chính đó bao hàm các đặc tính như khó nghèo, hiền lành (tử tế),
thương xót, có một trái tim tinh tuyền, xây dựng hoà bình. Sự công chính đó được
mô tả phần nào trong loạt sáu phản đề theo cấu trúc: Anh em đã nghe điều dã
được viết cho người xưa rằng … còn Thầy, Thầy bảo anh em là... Sự công chính ấy
chính là lối sống của chính Đức Giêsu. Mục tiêu của cả đời người rõ ràng Nước
Trời (Nước Thiên Chúa). Đây chính là vương quốc mà Đức Giêsu đã giới thiệu ngay
trong lời rao giảng đầu tiên, thậm chí Gioan, người dìm, cũng đã giới thiệu cùng
một vương quốc: Hãy hoán cải vì Nước Trời đã đến gần. Vương quốc (Vương được dọn
sẵn từ khi tạo dựng trời đất), cũng là chủ đề khép lại hành trình rao giảng công
khai của Đức Giêsu. Câu chuyện phán xét thời cánh chung (25,31-46) mô tả phần
thưởng vương quốc dành cho những người công chính, và hình phạt đời đời dành
cho những người bất chính. Những phần phúc như được gọi là con, được thừa kế miền
đất, được nhìn thấy Thiên Chúa, được phần thưởng nhiều trên trời, được ủi an, được
no thoả, tất cả đều là những cách diễn tả khác nhau của phần phúc “Nước Trời là
của họ”. Có Nước Trời, được ở trong Nước Trời thì sẽ có hết mọi sự và no thoả đời
đời với Chúa và với tha nhân.
Những mối phúc là Tin Mừng cho nhân loại: Chúng lý giải ý nghĩa của Nước Thiên Chúa đến
gần (4,18). Chúng cho thấy điều Chúa sẽ làm cho nhân loại, những người đi trong
đường lối Người. Chúng an ủi những người bị áp bức và bên lề của thế giới
(nghèo, sầu khổ, khiêm nhường, bị bắt bớ…).
Những mối phúc khích lệ những người: Bị đè bẹp bởi những dạng thức nghèo đói
và đau khổ. Những người trong đau khổ bắt chước Đức Giêsu người hiền lành và
khiêm nhường. Những người tìm kiếm can thiệp của Chúa, công lý của Người, trong
đau khổ của họ. Những người tha thứ cho anh chị em cách vô điều kiện, thương
xót với người thiếu thốn.
Những mối phúc ca tụng những người: Những người có tay sạch lòng thanh, với sự
tận hiến một lòng cho thánh ý Chúa. Những người tham gia vào sứ vụ xây dựng hòa
bình của Chúa Cha và Đức Giêsu. Những người đứng vững trước mọi hình thái cám dỗ
- bao gồm những bách hại về thể lý và tâm lý – buộc họ phải chối bỏ Đức Giêsu
và lời Người.
Các mối phúc hứa với họ: Chúa luôn đứng về phía họ, Nước Chúa là
của họ. Chúa sẽ ủi an họ, và thay đổi nước mắt thành niềm vui. Chúa sẽ làm họ
thỏa mãn và họ sẽ được bảo đảm một sự sống tròn đầy. Chúa sẽ thương xót họ
trong khi xét xử. Thiên Chúa sẽ ra khỏi bản tính vô hình của Người mà cho họ thấy
Người. Chúa sẽ nhìn nhận họ như những người con trong gia đình của Người.
Lm. Jos. Phạm Duy
Thạch, SVD
[1] While both discourses begin with
beatitudes, the two sets are very different: (i) Luke has four beatitudes
against Matthew’s eight, corresponding roughly to Matthew’s first, fourth,
second and eighth (though the last is in fact much closer to Matt 5:11–12 than
to Matt 5:10). (ii) Luke has four balancing “woes,” to which Matthew has no
parallel. (iii) Luke’s are cast in the second person, “Happy are you …” rather
than the third; in this they correspond to Matt 5:11–12 rather than to 5:3–10,
which use the more traditional third-person form. (iv) The “tone” is quite
different. Whereas in Matthew the qualities commended are essentially spiritual
and ethical, in Luke they are concerned with the situation in which disciples
find themselves, particularly in contrast with the security and satisfaction
which the rest of society seeks. There is nothing to suggest that “poor,”
“hungry,” “weeping” and “hated” in Luke are to be understood as anything other
than literal, and their counterparts in the woes (“rich,” “well fed,”
“laughing” and respected) maintain the same emphasis. Even where the same words
occur in the Matthean beatitudes, they are explicitly qualified in a
“spiritualizing” direction: “poor in spirit,” “hungry and thirsty for
righteousness.” Thus while the Matthean beatitudes commend in general terms the
qualities which promote the good life of the kingdom of heaven, the Lucan
beatitudes and woes speak directly to the disciples of their own material and
social disadvantage as a result of their following Jesus” [R.T. France,
The Gospel of
Matthew (NICNT; Grand Rapids 2007) 162-163].
[2] “I take to oros to be a general term for
the hill-country to the west and north of the Lake of Galilee, where the hills
rise steeply from the lake. So the phrase need not denote a specific mountain;
contrast the specific mention of “a (very) high mountain” in 4:8; 17:1 and the
named mountain of 24:3” (R.T. France, The Gospel of
Matthew, 157).
[3] “The verb didaskō, “teach” reinforces
that impression, while “opened his mouth” is a familiar OT idiom to introduce a
significant pronouncement (Job 3:1; 33:2; Ps 78:2; Dan 10:16; cf. Matt 13:35;
Acts 8:35; 10:34)” (R.T. France, The Gospel of
Matthew, 158).
[4] see Pss 1:1; 32:1–2; 40:4; 119:1–2;
128:1. In the NT compare Matt 11:6; 13:16; 16:17; 24:46, and many instances in
Luke (1:45; 10:23; 11:27–28) (R.T.
France, The Gospel of
Matthew, 159).
[5] “The sense of congratulation and
commendation is perhaps better conveyed by “happy,” but this term generally has
too psychological a connotation: makarios does not state that a person feels
happy (“Happy are those who mourn” is a particularly inappropriate translation
if the word is understood in that way), but that they are in a “happy”
situation, one which other people ought also to wish to share” (R.T. France,
The Gospel of
Matthew, 161).
[6] B.M.
Newman – P.C. Stine, A Handbook on the Gospel of Matthew (New York 1992)
107.
[7] “He too means the literally poor, but he
focuses on their psychological condition or frame of mind” [D.A. Hagner, Matthew 1-13 (WBC 33A; 2002)
91].
[8] B.M.
Newman – P.C. Stine, A Handbook on the Gospel of Matthew, 108.