Bản văn và dịch sát nghĩa
Hy
Lạp |
Việt |
1 Καὶ εἰσελθὼν διήρχετο τὴν
Ἰεριχώ. 2 Καὶ ἰδοὺ ἀνὴρ ὀνόματι καλούμενος Ζακχαῖος,
καὶ αὐτὸς ἦν ἀρχιτελώνης καὶ αὐτὸς πλούσιος· 3 καὶ ἐζήτει ἰδεῖν τὸν
Ἰησοῦν τίς ἐστιν καὶ οὐκ ἠδύνατο ἀπὸ τοῦ ὄχλου,
ὅτι τῇ ἡλικίᾳ μικρὸς ἦν. 4 καὶ προδραμὼν εἰς τὸ
ἔμπροσθεν ἀνέβη ἐπὶ συκομορέαν ἵνα ἴδῃ αὐτὸν ὅτι
ἐκείνης ἤμελλεν διέρχεσθαι. 5 καὶ ὡς ἦλθεν ἐπὶ
τὸν τόπον, ἀναβλέψας ὁ Ἰησοῦς εἶπεν πρὸς αὐτόν·
Ζακχαῖε, σπεύσας κατάβηθι, σήμερον γὰρ ἐν τῷ οἴκῳ
σου δεῖ με μεῖναι. 6 καὶ σπεύσας κατέβη καὶ
ὑπεδέξατο αὐτὸν χαίρων. 7 καὶ ἰδόντες πάντες
διεγόγγυζον λέγοντες ὅτι παρὰ ἁμαρτωλῷ ἀνδρὶ εἰσῆλθεν καταλῦσαι. 8 σταθεὶς δὲ Ζακχαῖος εἶπεν πρὸς
τὸν κύριον· ἰδοὺ τὰ ἡμίσιά μου τῶν ὑπαρχόντων,
κύριε, τοῖς πτωχοῖς δίδωμι, καὶ εἴ τινός τι ἐσυκοφάντησα
ἀποδίδωμι τετραπλοῦν. 9 εἶπεν δὲ πρὸς αὐτὸν ὁ Ἰησοῦς ὅτι σήμερον σωτηρία τῷ οἴκῳ τούτῳ ἐγένετο, καθότι καὶ αὐτὸς
υἱὸς Ἀβραάμ ἐστιν· 10 ἦλθεν γὰρ ὁ υἱὸς τοῦ ἀνθρώπου ζητῆσαι καὶ σῶσαι τὸ ἀπολωλός. (Lk. 19:1-10 BGT) |
1 Sau khi đi vào,
Người đi băng qua thành Giêrikhô. 2 Và kìa! Có một người đàn ông, được gọi tên là Zakêu. Ông
là một trưởng thuế vụ và ông giàu có. 3 Ông cứ tìm cách để biết Đức Giêsu là ai, nhưng ông ta vẫn không thể vì đám đông, vì ông ta có vóc dáng thấp bé. 4 Sau khi chạy lên phía trước, ông ta đi lên một cây sung để nhận biết Người vì
Người sắp đi qua đó. 5 Khi Người đến nơi ấy,
trong khi nhìn lên, Người nói cùng ông: “Hỡi ông
Zakêu, hãy đi xuống mau lên vì hôm nay tôi phải
ở lại nhà ông”. 6 Rồi, sau khi đi xuống,
ông vui sướng đón tiếp Người. 7 Khi nhìn thấy như vậy, tất
cả mọi người cứ phàn nàn, nói rằng: “Ông ấy đi vào để trọ lại với người đàn
ông tội lỗi sao!” 8 Trong khi đứng, ông Zakêu
nói cùng Chúa: “Này, phân nửa tài sản của tôi,
lạy Chúa, tôi cho những người nghèo và nếu tôi
có đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi trả lại bốn lần.” 9 Rồi Đức Giêsu nói cùng ông rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến với nhà này, bởi vì ông ta cũng là con trai của ông Ápraham. 10 Vì Con Người đã đến để tìm kiếm và để cứu những
gì đã bị mất.” |
Bối cảnh
Đây là dữ liệu độc
quyền của tác giả Luca. Vì thế, câu chuyện này sẽ có vị trí rất quan trọng
trong thần học của Tin Mừng thứ ba. Trong bối cảnh trực tiếp, Lc 19,1-10 có
cùng không gian là thành Giêrikhô với câu chuyện trước đó (Lc 18,35-43) cũng
như câu chuyện sau đó (19,11-27). Chủ đề về cách thức sử dụng nén bạc mà ông chủ
giao phó để sinh lời ở câu chuyện sau: “Dụ ngôn mười nén bạc” (19,11-27) nối kết
chặt chẽ với cách thức ông Zakêu sử dụng tài sản trong câu chuyện này. Lời công
bố “ơn cứu độ” dành cho nhà của ông Zakêu, cũng tương tự như với lời công bố ơn
cứu độ dành cho người mù thành Giêrikhô ngay trước đó: “Lòng tin của anh đã cứu
anh” (Lc 18,42). Trong bối cảnh rộng hơn, đề tài “ơn cứu độ” chắc chắn là một
trong những đề tài quan trọng nhất trong thông điệp Tin Mừng của Đức Giêsu, đặc
biệt trong toàn bộ tác phẩm hai phần của tác giả Luca (Lc 1,47.77; 2,11.30;
3,6; 8,12; 19,9; Cv 2,21.40.47; 4,12; 5,31…). Nhân vật “người thu thuế”, “người
tội lỗi” được nói đến rất nhiều trong những trình thuật trên hành trình lên Giêrusalem
(Lc 9,51 – 19,27) và toàn bộ Tin Mừng thứ ba (Lc 3,12-13; 5,27-32; 7,29; 7,34;
7,36-50; 15,1; 18,9-14; 19,1-10). Sự ảnh hưởng của sự “giàu có” đối với “ơn cứu
độ” được Đức Giêsu của Luca nói đến rất nhiều trong các sách Tin Meng (Lc
6,20.24; 8,3; 12,13-34; 16,9-13.19-31; 18,18-27).
Cấu trúc
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận,
Lc 19,1-10 có thể được chia thành hai phần với cấu trúc song song: abcd
a’b’c’d’. Tìm kiếm (a) // (a’) Gặp gỡ; Cản
trở (b) // (b’) Cản trở; Nỗ lực (c) // (c’) Nỗ lực; Đáp trả của Chúa (d) //
(d’) Đáp trả của Chúa. Hai phần này là hai giai đoạn trong quá trình tìm Chúa của ông Zakêu, với đỉnh cao là ơn cứu độ dành cho nhà ông.
Dẫn nhập: Con Người đi vào và đi ngang qua
(1) a.Ông Zakêu tìm Chúa: Cứ tìm để nhận biết (2-3a) b.Cản trở của đám đông (3b): Vì đám đông, vì ông thấp bé c.Nỗ lực của ông Zakêu: Chạy lên trước, đi lên cây
sung, để nhận biết (3-4) d.Đáp trả của Chúa: Đến, nhìn lên, nói cùng, ở lại (5) a’.Ông Zakêu gặp Chúa: Đi xuống, vui mừng, tiếp đón (6) b’.Cản trở của đám đông (7): Cứ xầm xì: Ông ấy ở lại với người tội lỗi. c’.Nỗ lực của ông Zakêu: Cho phân nửa tài sản; đền trả
gấp bốn (8) d’.Đáp trả của Chúa: Công bố ơn cứu độ (9) Kết
luận: Mục đích của Con Người đến
(10) |
Một vài điểm chú giải
1.
Đi
vào, … đi ngang qua, … đến nơi đó… nhìn lên: Đây là những động từ mô tả chuyển
động của Đức Giêsu trong câu chuyện này. Hành trình này tiếp tục sau phép lạ chữa
lành người mù trước đó (Lc 18,35-43). Trình thuật về phép lạ ấy bắt đầu bằng mệnh
đề: “Khi Người đến gần thành Giêrikhô” (18,35). “Người đến” vì có một người mù
đang ngồi ăn xin bên đường. Có thể nói rằng, mỗi bước chân trên hành trình lên Giêrusalem
không phải là những bước chân của một khách bộ hành du lịch, nhưng là những bước
chân của sứ giả Tin Mừng. Tác giả Luca mô tả khá nhanh hai hành động: “Đi vào”
và “đi băng qua” thành Giêrikhô. Độc giả không biết Đức Giêsu muốn đi đâu cho đến
khi Đức Giêsu “đi đến nơi ấy” và “nhìn lên”, họ chợt hiểu mục đích của đoạn
hành trình này. Đức Giêsu “đi vào” và “băng qua” thành phố là vì Người muốn gặp
ông trưởng thuế vụ. Hành trình này phải được tiếp tục với đề xuất “ở lại nhà
ông Zakêu” của Đức Giêsu và lên đến đỉnh cao khi Đức Giêsu công bố “ơn cứu độ
đã đến cho nhà này”. Nên nhớ rằng, ông Zakêu lên kế hoạch để nhận biết Đức Giêsu,
nhưng chính Đức Giêsu lại nhìn lên ông và thấy ông trước, nhận biết ông trước,
và khởi đầu tương quan với ông. Cặp động từ “đi vào” và “đi băng qua” cũng được
tác giả Luca sử dụng trong câu chuyện “chữa lành mười người bị bệnh ngoài da”
(Lc 17,11-19), trong đó, Đức Giêsu cũng “băng qua (διήρχετο) ranh giới
giữa Samari và Galilê” để rồi “đi vào (εἰσερχομένου) một làng kia”,
vì ở đó có mười người bị bệnh ngoài da đang ao ước gặp Người. Câu chuyện này
cũng lên đến cao trào với lời tuyên bố: “Đức tin của anh đã cứu anh” (Lc
17,19). Động từ “băng qua” được dùng ở thì chưa hoàn thành diễn tả sự liên tục,
kéo dài của hành động “băng qua” của Đức Giêsu. Nó dài đủ để Đức Giêsu có cuộc
gặp gỡ trọn vẹn với ông Zakêu.
2. Trưởng thu thuế, … giàu có, …tội lỗi: Đây
là những đặc tính hết sức bất lợi cho nhân vật Zakêu. Là một người thu thuế,
ông bị xem như người ngoại lai trong xã hội Do Thái. Ông bị đồng hóa với người
tội lỗi. Thực chất, người thu thuế trong dụ ngôn “hai người lên đền thờ cầu
nguyện”, đã nhìn nhận mình là “người tội lỗi” (18,13). Trong câu chuyện này, mọi
người đều gọi ông là “người đàn ông tội lỗi” (19,7). Có lẽ, tội lỗi rõ ràng nhất
của họ là thường thu thêm quá mức thuế đã được ấn định (Lc 3,12-13). Họ làm
tay sai cho ngoại bang nên bị đồng hương khinh bỉ. Họ thường bóc lột dân chúng
để thu lợi, làm giàu cho riêng mình.[1] Tác giả J. Fitzmyer cho biết
rằng những người thu thuế thường ấn định và thu thêm những khoản phải nộp cho
Rôma để bỏ túi riêng.[2] Trên thực tế, vì những người trưởng thuế vụ phải nộp
trước cho người Rôma doanh thu được ấn định, rồi họ tìm cách thu lại cùng số lượng,
nhưng thường thì thu thêm. Vì không ai kiểm soát nên họ có thể tự do lạm dụng một
cách bất chính.[3] Ông không phải là một nhân
viên thuế vụ mà còn là thuế trưởng. Nghĩa là cơ may giúp cho ông đòi hỏi quá mức
thuế ấn định càng nhiều hơn và tội lỗi ở mức nặng hơn. Tác giả William Barclay tuyệt đối
hóa sự khinh bỉ này như sau: “ông Zakêu là một người đã đạt đến đỉnh cao của
nghề nghiệp và ông ta là người bị ghét nhất trong thành.”[4]
Như vậy, địa vị “Đứng đầu những người thu thuế” không làm cho ông “cao lớn”, “nở
mày nở mặt” nhưng làm cho ông trở nên “thấp bé” và thậm chí bị xem là kẻ tội lỗi
đáng xa lánh trong cộng đồng Do Thái (Lc 19,7). Trong câu chuyện này, ông đã thừa nhận nguy cơ
rằng ông đã “chiếm đoạt của” người nào đó và vì thế có ý muốn đền trả gấp bốn. Tuy
nhiên, đặc tính “tội lỗi” và “thu thuế” cũng là đặc tính mang lại có ông những
lợi thế đáng kể. Thứ nhất, đây là những người được Đức Giêsu tìm kiếm: “Ta
không đến để kêu gọi những người công chính, nhưng là người tội lỗi đi vào sự
hoán cải” (οὐκ ἐλήλυθα καλέσαι δικαίους ἀλλ᾽ ἁμαρτωλοὺς εἰς μετάνοιαν, Lc 5,32). Thứ hai, ông là đối tượng được Đức Giêsu
tìm kiếm và cứu độ: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu những gì đã mất” (19,10).
Thứ ba, Đức Giêsu thường xuyên ăn uống và làm bạn với “người thu thuế và những
người tội lỗi” (Mc 2,15-16; Lc 15,1). Hơn nữa, trong Tin Mừng Luca, những người
thu thuế phản ứng tích cực trước lời mời gọi hoán cải và chịu phép rửa của ông
Gioan Tẩy giả (3,12-13) và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công Chính (Lc 7,29). Người
thu thuế được Đức Giêsu công bố là người “được nên công chính” sau tiến trình
hoán cải và kêu xin lòng thương xót của Chúa trong đền thờ (Lc 18,14). Cùng với
những gái điếm, những người thu thuế được công bố là sẽ vào Nước Thiên Chúa trước
Thượng Tế và các Kỳ Mục (Mt 21,31-32).
Giàu có cũng là
một đặc tính hết sức bất lợi. Tin Mừng Luca ghi lại mối họa dành cho những người
giàu: “Khốn khổ thay cho anh em là những người giàu, vì anh em đã nhận được phần
an ủi rồi” (6,24). Trong loạt trình thuật trên hành trình lên Giêrusalem có dụ
ngôn về “ông nhà giàu thu tích của cải” (Lc 12,16-21); Dụ ngôn “ông nhà giàu và ông Ladarô nghèo khổ,
bệnh tật”, với số phận bất lợi dành cho ông nhà giàu sau khi chết (Lc 16,19-31);
Câu chuyện người thủ lãnh giàu có không thể đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu –
“Hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho những người nghèo” (Lc 18,22)
– để rồi Đức Giêsu phải công bố thực tế phũ phàng: “Những người có của thì khó
vào Nước Thiên Chúa biết bao. … Con lạc đà chui qua lỗ kim thì còn dễ hơn người
giàu có vào Nước Thiên Chúa” (Lc 18,24-25). Ông Zakêu là một người giàu có, chính vì thế ông
cũng có thể không ngoại lệ và cũng có thể gánh lấy những nguy cơ đó.[5]
3. Luôn tìm cách để biết: Động từ tìm, được chia ở thì “chưa hoàn thành” (evzh,tei), diễn tả một hành động bắt đầu trong quá khứ kéo dài đến hiện tại và còn tiếp diễn trong tương lai: “Ông hằng tìm kiếm”. Cách dùng này cho thấy niềm khát mong trong con người của ông Zakêu. Động từ “tìm cách” cũng cho thấy một quá trình xoay xở, làm nhiều sự, thử nhiều lần để làm sao đạt được điều mình mong mỏi, chứ không phải là hành động nhất thời, mang tính bộc phát. Điều ông mong mỏi là “nhận biết Đức Giêsu là ai”. Động từ “ὁράω” thường được dịch là “nhìn thấy”, “xem”. Tuy nhiên, nó còn có nghĩa là “nhận thức”, “trải nghiệm”, “biết”, “nhận ra”. Hơn nữa, vì nội dung đi sau động từ này là “Đức Giêsu là ai”, nên phải hiểu là ông Zakêu tìm cách hiểu biết, nhận biết Đức Giêsu chứ không đơn giản chỉ hiếu kỳ, tò mò nhìn xem vẻ bề ngoài của Người, như một vài tác giả chủ trương[6]. Có thể nói rằng, ông Zakêu không chỉ muốn xem diện mạo của Đức Giêsu nhưng cho bằng khám phá ra “Đức Giêsu là ai?” (Ihsou/n ti,j evstin) đối với mình. Đây là một câu hỏi hết sức quan trọng về căn tính của Đức Giêsu, không chỉ cho ông Zakêu nhưng cho tất cả những ai đang tìm kiếm ơn cứu độ. Đây cũng chính là câu hỏi mà Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ được ghi lại trong cả ba Tin Mừng Nhất Lãm (Người ta nói Con Người là ai? … Còn anh em nói Thầy là ai?”, Lc 9,20; Mt 16,15; Mc 8,29). Cách đáp trả một cách mau mắn, mạnh mẽ, và cụ thể cho thấy ông mong đợi điều gì đó hơn từ Đức Giêsu, chứ không chỉ đơn giản để nhìn thấy Người. Có lẽ, vì ông cũng đã nghe biết rằng Đức Giêsu đã chọn một người thu thuế (ông Lêvi), đồng nghiệp của ông, làm môn đệ, nên ông cũng hy vọng được theo Người. Việc ông sẵn sàng cho đi phân nửa tài sản, và hoàn trả gấp bốn cho những ai mà ông đã cưỡng đoạt, cho thấy ông đã sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình tích góp cả đời để được theo Chúa.
4. Vì đám đông … nhỏ về vóc dáng: Cụm từ “h`liki,a| mikro.j” được nhóm CGKPV chuyển ngữ theo hai cách: “lùn” và “vóc người thấp”.[7] Thật ra, cả hai cách dịch này là hai lối diễn tả khác nhau của cùng một ý nghĩa. “Vóc người thấp” thì cũng là “lùn” mà thôi. Trong khi đó, tính từ “mikro.j” có rất nhiều nghĩa: nhỏ, trẻ, đứa trẻ, khiêm tốn, thấp. Bản dịch NASB (New American Standard Bible) dịch là: “small in stature”, bản dịch của KJV (King James Version of the Bible) là: “little of stature” và bản dịch RSV (Revised Standard Version ): “Small of stature”. Như vậy, có thể ông Zakêu không những “thấp” mà còn “bé” nữa. Nói chung là có thể hiểu ông là người vừa thấp bé vừa nhẹ cân. Quan trọng hơn, tính từ “mikro.j” còn có thể được hiểu theo nghĩa biểu tượng. Ông Zakêu tượng trưng cho một tầng lớp những người “thấp kém” (the lowly) tương tự như những trẻ em, quả phụ, người ăn mày mù lòa, đã được nói đến trong chương 18.[8] Hơn nữa, với ba đặc điểm mô tả về ông (giàu có, trưởng thuế vụ, tội lỗi), ông có thể bị xem như là hạng người thấp kém về nhân phẩm, và rất khó để đạt ơn cứu độ. Mệnh đề chỉ lý do “vì đám đông” (ἀπὸ τοῦ ὄχλου) trong câu “nhưng ông vẫn không thể vì đám đông” (καὶ οὐκ ἠδύνατο ἀπὸ τοῦ ὄχλου), đi với mệnh đề chỉ lý do “vì vóc dáng nhỏ bé” (ὅτι τῇ ἡλικίᾳ μικρὸς ἦν), tạo nên một lý do kép cho thấy đám đông, cùng với những thấp kém của ông thật sự là những cản trở lớn cho nỗ lực “tìm cách để nhận biết Chúa” của ông. Chúng ta có thể hiểu lý do kép này theo hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất, đám đông là một rào cản tự nhiên, bị động. Đám đông to, cao, lớn, chật chội, làm che khuất tầm nhìn của một người có vóc dáng nhỏ như ông. Độc giả vẫn thường thấy đám đông gây cản trở theo nghĩa này trong các câu chuyện khác như: “Người bất toại phải được thả xuống từ mái nhà vì những người mang ông ta không thể chen qua đám đông (Lc 5,17-26; Mc 2,1-12; Mt 9,1-8); Mẹ và anh em của Đức Giêsu không thể lại gần Người (Lc 8,19); Người phụ nữ bị bệnh rong huyết phải len vào giữa đám đông để chạm vào Đức Giêsu (Lc 8,45). Cấp độ thứ hai, đám đông chủ động ngăn cản nỗ lực của ông. Hình ảnh minh họa rõ ràng nhất và gần với đoạn văn này nhất là hình ảnh đám đông quát nạt, ngăn chặn người mù thành Giêrikhô kêu xin lòng thương xót từ Đức Giêsu (Lc 18,35-43). Đám đông nói chung luôn khinh thường, loại trừ những người như ông Zakêu, một người thu thuế và tội lỗi. Họ không cho ông một cơ hội nào để tiếp xúc với Đức Giêsu. Những rào cản này được thể hiện rõ nét, cụ thể trong lời phàn nàn, xầm xì của đám đông sau đó: “Ông ta đi vào và ở lại với một người đàn ông tội lỗi” (19,7). Những lời phàn nàn, xầm xì, kiểu như vậy thường được giới lãnh đạo Do Thái sử dụng để cản trở Đức Giêsu đến với những người thu thuế và những người tội lỗi (Lc 15,2; 7,39; Mc 2,16). Hành động “phàn nàn hoài” của đám đông ở đây không chỉ là rào cản cho ông Zakêu mà còn là rào cản cho chính Đức Giêsu. Đám đông không đồng ý khi Đức Giêsu lui tới giảng dạy đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, trong đó, hình ảnh tiêu biểu nhất là ông Zakêu. Tương tự như động từ “tìm cách”, động từ “không thể” cũng được dùng ở thì chưa hoàn thành (ἠδύνατο), diễn tả một tình trạng kéo dài: “Vẫn chưa có thể”. Ông tìm kiếm hoài, và vẫn đang tìm kiếm, nhưng vẫn chưa có thể, vì đám đông và vì vóc dáng cũng như tình trạng nhân phẩm của ông. Như thế, cuộc gặp gỡ với Đức Giê-su là hôm ấy là thời điểm mấu chốt để ông “có thể” hoàn tất giấc mơ tìm kiếm của mình.
5. Chạy lên phía trước … đi lên … đi xuống … đứng: Cách chuyển động của ông Zakêu được gom lại để cho thấy sự thay đổi, biến chuyển trước và sau khi được gặp Chúa. Ông đã thể hiện nhiệt huyết tìm kiếm bấy lâu của mình bằng một sáng kiến hết sức táo bạo: “Chạy tới phía trước, đi lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó” (Lc 19,4).
Luca là tác giả Nhất Lãm duy nhất dùng động từ “protre,cw” (chạy lên trước). Thậm chí, động từ này không xuất hiện nơi nào khác trong Tân Ước ngoại trừ trong Ga 20, 4 diễn tả việc Gioan chạy trước Phêrô và đến mộ trước. Hành động này cho thấy ông vội vã và nhiệt huyết đến mức nào. Thật khó có thể tưởng tượng được một sở trưởng thuế vụ, dưới tay có biết bao tay sai, lại chấp nhận trở thành kẻ ngây ngô như một đứa trẻ: Chạy lên trước, đi lên trên cây. Hành động “chạy lên phía trước” và “đi lên cây sung” giúp cho ông Zakêu vượt qua được rào cản của đám đông. Đó là hai hành động diễn tả sáng kiến táo bạo, nỗ lực hết sức có thể của ông, để dẫn đến hai hành động đối xứng sau đó “đi xuống” và “đứng”.
Bốn động từ mô tả sự chuyển động của ông Zakêu, cho thấy rõ ràng một sự thay đổi trước và sau khi Đức Giêsu gặp ông. Trước khi Đức Giêsu gặp ông, ông phải “chạy” và “đi lên cây sung”. Sau khi Đức Giêsu gặp ông (qua hành động nhìn lên), ông không chạy nữa mà “đứng” tại chỗ, không “đi lên nữa”, nhưng “đi xuống”. Chính Đức Giêsu đã cho ông một chỗ đứng trước mặt Người, giữa đám đông, vinh dự mà ông không bao giờ tưởng tượng ra được. Ông tưởng phải “đi lên” mới nhận biết Người, còn Người lại cho ông thấy là phải “đi xuống” vì Người đang ở dưới với ông. Động từ đi xuống được lặp lại hai lần: Đức Giêsu ra lệnh cho ông Zakêu “đi xuống”, ông liền vâng lời “đi xuống” (19,5-6). Mệnh lệnh đi xuống được đi kèm với một động từ ở dạng phân từ “nhanh lên” (σπεύσας), cũng được lặp lại hai lần, có chức năng làm trạng ngữ, bổ nghĩa cho động từ đi xuống. Đây là một hành động cấp thiết, gấp gáp, không thể chờ đợi thêm một phút giây nào. Cách gọi tên “Zakêu!” của Đức Giêsu càng chứng tỏ rằng Người đã biết đến ông từ trước, biết về hoàn cảnh, tình trạng của ông, và có thể biết cả khao khát, nỗ lực muốn nhận biết Người của ông. Đức Giêsu hoàn toàn chủ động trong cuộc gặp gỡ này. Cách mà người thuật chuyện giới thiệu ông Zakêu lúc đầu cũng thật long trọng đặc biệt: “Và kìa (ἰδοὺ) có một người đàn ông được gọi là Zakêu!”. Thán từ “ἰδοὺ” có nhiều nghĩa như “Kìa! Nhìn kìa! Nghe này! Chú ý!”. Thán từ này đưa ông Zakêu vào trung tâm mọi sự chú ý của độc giả. Người ta sẽ phải theo dõi tiếp xem ông này thế nào, và chuyện gì sẽ xảy đến với ông ta.
6. “Hôm nay tôi phải ở lại”: Không những mời gọi ông Zakêu đi xuống, cho ông một chỗ đứng trước mặt mình, Đức Giêsu còn tự mời mình vào nhà của ông: “Nhất thiết hôm nay tôi phải lưu lại trong nhà của ông” (19,5). Lời “tự mời” này được diễn ra ngay khi ông chưa kịp “đi xuống”. Nó được dẫn đầu bởi một liên từ chỉ lý do “bởi vì” (γὰρ).
Đó là lý do tại sao ông phải “đi xuống ngay”. Đức Giêsu đến để gặp lại ông thật sự, chứ không phải Người tình cờ đi qua trên con đường này, và tình cờ gặp ông. Động từ không ngôi “phải” (δεῖ) là một động từ đặc biệt thường được sử dụng để mô tả một sự cần thiết có tính bắt buộc trong sứ vụ thần linh[9]: “Cha mẹ không biết rằng con nhất thiết phải ở trong nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49); “Thầy nhất thiết phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho những thành thị khác nữa” (Lc 4,43); “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị loại trừ bởi các Thượng Tế và Kinh Sư, bị giết chết và được trỗi dậy vào ngày thứ ba” (Lc 9,22; Cf. 17,25); “Nhất thiết lời Thánh Kinh phải được hoàn tất” (Lc 22,37). Đề xuất “ở lại nhà” ông Zakêu nhất thiết phải xảy ra và rất cần thiết cho tiến trình ban ơn cứu độ cho ông. Công bố của Đức Giêsu không những làm ông Zakêu kinh ngạc, mà còn làm cho đám đông cảm thấy bất bình, khó hiểu, dẫn đến lời phàn nàn: “Ông ấy đi vào để ở lại với một người đàn ông tội lỗi” (Lc 19,5). Lời phàn nàn này là một rào cản cụ thể cho cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Zakêu.
7. Vui mừng tiếp đón: Sau khi làm theo mệnh lệnh của Đức Giêsu: “Hãy đi xuống mau lên”, ông tiếp tục đáp trả cho đề xuất bất ngờ của Đức Giêsu: “Vì hôm nay tôi nhất thiết phải ở lại nhà ông”. Ông hạnh phúc đón tiếp Người (ὑπεδέξατο
αὐτὸν χαίρων). Niềm hạnh phúc của ông Zakêu là niềm hạnh phúc của người ao ước được nhận biết Đức Giêsu trong một khoảng thời gian dài. Hôm nay, ông không những được Đức Giêsu nhìn lên, gọi đích danh, mà còn được vinh dự đón tiếp Người ở lại nhà nữa. Cuộc gặp gỡ dẫn đến sự đón tiếp trong đoạn văn này, gợi nhớ đến cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người thu thuế tên là Lêvi. Đức Giêsu chủ động đến với ông Lêvi khi ông đang ngồi ở trạm thu thuế. Rồi, người gọi ông: “Hãy theo tôi!” Ông liền bỏ lại tất cả, đứng dậy, đi theo Người. Sau đó, ông làm tiệc lớn để chiêu đãi Đức Giêsu, đồng nghiệp thu thuế và nhiều người khác nữa (x.Lc 5,27-32). Có thể nói là đó là cuộc gặp gỡ mang đến sự “đổi đời”, đời người tội lỗi thành đời người “công chính”; Thân phận người bị hư mất được đổi thành thân phận người được cứu độ.
8. Cho những người nghèo … đền trả cho những người bị thiệt hại: Những lời hứa hướng đến những hành động cụ thể của ông Zakêu nhắm đến hai mục đích. Thứ nhất, những hành động này là một tiến trình hoán cải, nhằm đáp trả lại tấm lòng của Đức Giêsu. Thứ hai, đó cũng là những việc làm giúp ông vượt qua rào cản của đám đông đang khinh miệt ông là một kẻ tội lỗi, không xứng đáng để ở cùng Đức Giêsu. Công bố của ông gồm hai phần.
Phần thứ nhất được xem như là việc phân phát từ thiện. Ông Zakêu đã cho thấy lòng quảng đại của ông khi ông dám cho người nghèo phân nửa gia sản của mình. Tác giả L.T. Johnson cho rằng động từ “di,dwmi” được chia ở thì hiện tại, nhưng lại mang nghĩa tiếp diễn, diễn tả một hành động lặp lại theo thông lệ hơn là một sự quảng đại mang tính bộc phát. Mà theo như Luca, làm việc bố thí là dấu hiệu thật sự của sự công chính (6,30-31.38; 11,41; 12,33; 16,9; 18,22.29).[10] Trong khi đó, theo tác giả R.J. Karris có thể hiểu động từ này theo hai hướng. Nếu hiểu động từ hiện tại “di,dwmi” theo nghĩa tương lai, thì ông Zakêu đang nói rằng ông không còn là một người tội lỗi nữa, ông quyết tâm thay đổi lối sống của mình. Nếu hiểu nghĩa thì hiện tại của động từ này như là một thói quen, nghĩa là ông vẫn đang phân phát như thế, thì ông Zakêu đang nói với đám đông rằng ông không phải là một người tội lỗi như họ nghĩ, vì ông vẫn không ngừng làm việc thiện. Cách hiểu thứ nhất xem ra vẫn có khả năng hơn, vì nó diễn tả nỗ lực biến đổi của ông sau khi gặp Đức Giêsu và nhờ đó mà đạt được ơn cứu độ.[11] Cách làm của ông đáp lại nhiều lời mời gọi của Đức Giêsu trước đó “hãy bán tài sản của mình đi mà phân phát từ thiện, hãy sắm lấy kho tàng không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12,33); “Ông chỉ còn thiếu một điều là hãy bán tất cả những gì mình có mà phân phát hết cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Lc 18,22). Qua đó, ông biến hóa giải được sự khó khăn nghìn trùng cho việc người giàu có đi vào Nước Trời (Lc 18,24-25). Khẳng định của Đức Giêsu “những gì không thể đối với loài người thì đều có thể đối với Thiên Chúa” (Lc 18,27) đã xảy ra trên cuộc đời của ông Zakêu: Một người giàu có có thể vào Nước Thiên Chúa.
Phần thứ hai là bồi thường. Biểu hiện thay đổi của ông không chỉ thể hiện ở lòng quảng đại đối với người nghèo, mà còn thể hiện đức công bình quá mức so với đòi hỏi bồi thường “gấp đôi” được ghi trong Xh 22,3-6. Điều này chứng tỏ rằng ông Zakêu không chỉ làm những gì Lề Luật dạy, nhưng biểu lộ một sự thay đổi và hoán cải thật sự.[12] Như thế, Zakêu dường như không còn gì, sau khi ông làm những điều mình tuyên bố nhưng ông có cả một kho tàng trên trời.
9. Ơn cứu độ … hôm nay: Trạng từ thời gian - “hôm nay” (σήμερον) - nối kết lời công bố về ơn cứu độ, với ý muốn “ở lại nhà ông” Zakêu của Đức Giêsu trước đó. Mục đích của việc “ở lại nhà hôm nay” chính là để cuối cùng công bố “hôm nay ơn cứu độ đã đến với nhà này”. Trạng từ “hôm nay” còn nối kết với Tin Mừng trọng đại về sự ra đời của Đấng Cứu Độ: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Chúa, đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít” (Lc 2,11). Ngày Đức Giêsu khai mạc sứ vụ cũng được đánh dấu bằng trạng từ này: “Hôm nay, lời Sách Thánh văng vẳng trong tai quý vị đã được hoàn tất” (Lc 4,21). Lời đó là lời của ngôn sứ Isaiah: “Thần Khí Chúa ở trên tôi, vì Người đã xức dầu cho tôi để loan báo Tin Vui cho những người nghèo. Người đã sai tôi loan báo sự tự do cho những người bị giam cầm và phục hồi ánh sáng cho những người mù, mang lại sự giải thoát cho những ai bị áp bức; công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đức Giêsu chính là “ơn cứu độ” mà lão ngôn sứ Simêon đã nhìn thấy trước đó: “Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ của Người, mà Người đã chuẩn bị trước mặt muôn dân” (Lc 2,30-31). Lý do mà Đức Giêsu đưa ra là “vì ông ta cũng là con cái của tổ phụ Ápraham”. Căn tính con cái của tổ phụ Ápraham có thể liên quan đến đức tin (St 15,5) và lòng quảng đại của ông (St 13,8-9; 14,21-24).[13]
Nó có thể liên quan trực tiếp đến những công bố của ông Zakêu trước đó: Cho những người nghèo phân nửa tài sản, và trả lại gấp bốn cho những gì ông đã cưỡng đoạt.
10. Tìm và cứu: Động từ “tìm kiếm” được dùng để mô tả hành động tìm kiếm của ông Zakêu, cuối cùng được Đức Giêsu dùng để mô tả về mục đích của chính Người như là Con Người: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu những gì đã mất”. Ông Zakêu luôn “tìm kiếm” (ἐζήτει) Đức Giêsu đã được Đức Giêsu “tìm kiếm” (ζητῆσαι). “Sự tìm kiếm” của ông Zakêu đã tìm thấy mục đích “tìm kiếm và cứu độ” của Đức Giêsu. Tuyên bố về mục đích của Con Người khi đến trần gian gợi nhớ đến câu nói đó: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính, nhưng là những người tội lỗi đi vào sự hoán cải” (5,32). “Những gì đã mất” trong bối cảnh này có thể hiểu trước tiên là ông Zakêu và “nhà của ông”, sau nữa có thể hiểu rộng ra cho tất cả những người thu thuế, và những người tội lỗi khác, những con chiên lạc nói chung. Lời tuyên bố cuối cùng của Đức Giêsu được bắt đầu bằng một liên từ chỉ lý do “bởi vì” (γὰρ):
“Vì Con Người đã đến là để tìm kiếm và cứu độ những gì đã mất”. Cách nói này cho thấy Đức Giêsu, Con Người, chủ động hoàn toàn trong việc tìm kiếm và mang lại ơn cứu độ cho ông Zakêu và nhà của ông. Dẫu rằng ông Zakêu cũng đã chủ động tìm kiếm và đóng góp tích cực phần mình trên tiến trình hoán cải, nhưng không phải vì thế mà ông đương nhiên đạt được ơn cứu độ. Ơn cứu độ là quà tặng nhưng không của Con Người.
Bình luận tổng quát
Trình thuật về sở trưởng thuế vụ Zakêu như là bản tóm và đáp trả cho tất cả những trình thuật “trên đường lên Giêrusalem” của Đức Giêsu, như một giải pháp tối ưu cho những vấn nạn được đặt ra trong chương 18 trước đó.
Về phía ông Zakêu có thể tóm lại 3 điều rõ nét sau. Trước hết, về thân phận, Zakêu có thân phận giống với thân phận của những người thấp bé được đề cập trước đó: “Bà góa” bị hại
(18,1-8); Người thu thuế
(18,9-14); Trẻ em
(18,15-17); Người thủ lãnh giàu có
(18,18-23); Người mù đau khổ thành Giêrikhô
(18,35-43). Kế đến, ông chính là biểu tượng tròn đầy cho sự đáp trả của những thành phần thấp bé (the lowly), trong hành trình tìm kiếm Chúa: Sự miệt mài tìm kiếm (của bà góa); Sự mạnh mẽ vượt ra khỏi cản trở của đám đông (của anh mù Giêrikhô); Sự đơn sơ trong phương cách tiếp cận Chúa (của những trẻ thơ). Ông đã vượt qua mọi rào cản cả bị động và chủ động của đám đông để vươn đến Chúa. Cuối cùng, ông Zakêu cho thấy mình vượt trội so với người thủ lãnh giàu có trước đó (18,18-23) khi ông dám dùng phân nửa tài sản của mình để cho người nghèo và đền gấp bốn cho tất cả những thiệt hại ông đã gây ra cho người khác. Ông đã cho thấy mình quảng đại, khôn ngoan và công bình vượt bậc trong cách sử dụng tài sản của mình.
Về phía Đức Giêsu, cũng có ít nhất ba điều đáng nói sau. Thứ nhất, Đức Giêsu cho thấy Người là Thiên Chúa khi biến “điều không thể thành có thể” như Người đã nói trước đó: “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa".
Quả vậy, Người đã làm cho ông Zakêu, một người giàu có và tội lỗi “vào Nước Thiên Chúa”, điều đó vốn dĩ là khó hơn cả “con lạc đà chui qua lỗ kim”. Thứ hai, Người cho thấy Thiên Chúa luôn trung thành với lời hứa và không chịu thua lòng quảng đại và miệt mài tìm kiếm của con người. Thứ ba, Đức Giêsu thực hiện lời Người đã hứa trước đó: “Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (18,29-30). Người đã ban ơn cứu độ không chỉ cho một mình ông Zakêu nhưng cho cả “nhà này”.
Câu chuyện ông Zakêu khởi đầu bằng việc Đức Giêsu “đi vào và đi ngang” thành Giêrikhô, đã khép lại với một kết thúc có hậu: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến với nhà này”. Hai loạt chuyển động từ hai hướng khác nhau của hai người khác nhau đã tìm thấy nhau: Ông Zakêu “cứ tìm cách để biết Đức Giê-su là ai” - “chạy lên phía trước” – “đi lên cây sung” – “để gặp Đức Giê-su”; Đức Giê-su “đi vào thành” – “đi ngang qua thành” – “đến chỗ ấy” – “nhìn lên” - “bảo ông Zakêu đi xuống” – “đề xuất được ở lại nhà ông hôm ấy”. Ông Zachêu nghĩ rằng mình phải tìm Chúa, phải đi lên cao mới gặp Đức Giêsu, nhưng Đức Giêsu lại tìm ông trước; Thấy ông trước; Nhìn lên ông; Và gọi ông đi xuống, vì Người đang ở dưới, không cần ông phải đi lên mới gặp Người. Ông Zakêu phải nỗ lực chạy lên phái trước trong khi Đức Giêsu lại mời ông đứng trước mặt Người và thưa chuyện với Người như một người bạn và hơn nữa, Người sẵn sàng chủ động ở lại nhà ông mặc cho cho bao lời thị phi, xầm xì. Cả hai người đều phải vượt qua rào cản to lớn về không gian địa lý và nhất là rào cản của định kiến, xầm xì chỉ trích, của đám đông. Cuối cùng, Đức Giêsu, “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” đã làm cho ông Zakêu, một người đầy những nhược điểm lại chiếm ngự được một vị trí trên Nước Trời. Người đã thắp lên hy vọng tìm thấy niềm vui Nước Trời cho tất cả những người hèn mọn, tội lỗi, trong thành Giêrikhô nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Người cũng mời gọi đám đông thời ấy và dân chúng qua mọi thời đại biết quãng đại, mở một con đường để những người “tội lỗi”, “thấp bé về mặt nhân phẩm”, có cơ hội trở về trong vòng tay Thiên Chúa Cha nhân từ, vì dù tội lỗi đến đâu họ vẫn là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, vẫn là con cái Thiên Chúa.
Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD
[1]
Xc. The Navarra Bibble. Gospel &
Acts, Revised Standard Version with a Commentary by members of the Facculty of
Theology of the University of Navarre (Princeton 2002) 86 and 472.
[2] J. Fitzmyer, The Gospel according
to Luke I-IX. Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven – London 2008)
28A, 470.
[3] J. Fitzmyer, Luke I-IX, 470;
See J.R. Donahue, “Tax Collectors and Sinners: An Attempt at Identification”, CBQ
33 (1971) 39–61.
[4] Xc. W. Barclay, the Gospel of Luke (DSB;
Philadelphia1975) 234.
[5] Xc. Rudolf Schnackenburg, Đức Giêsu trong Các Sách Tin Mừng Kitô học
Kinh Thánh (nguyên tác Jesus in the Gospel. A Biblical Christology, Lousisville: 2005, Nguyễn Luật Khoa và
Phạm Thị Huy chuyển ngữ), tr. 215-216.
[6] M.J. Lagrange, Evangile selon
Saint Luc (Paris 1948) 488;
J. Schmid, Das Evangelium nach Lukas (RNT 3; Regensburg 1955) 286.
[7] Xc. Kinh Thánh Tân Ước, Bản dịch
có hiệu đính của nhóm CGKPV (Hà nội: Tôn Giáo, 2008) 340 và Lời Chúa Cho Mọi Người (Hà Nội: Tôn
Giáo, 2007) 1791.
[8] Xc. W. P. Loewe, “Towards an
Interpretation of Lk 19:1-10”, CBQ 36 (1974) 325.
[9] F. W. Danker, Jesus and the
New Age. A Commentary on St.
Luke’s Gospel (Philadelphia 1988) 305.
[10] Xc. Luke Tymothy Johnson, The Gospel of Luke, 286.
[11]
Xc. R.J. Karris “The Gospel According to Luke”, The New Jerome Biblical Commentary (ed. R.E. Brown et al) (New
Jersey 1990) 711.
[12] Xc. W. Barclay, the Gospel of Luke, 235.
[13] R.H. Stein, Luke (NAC 24; Nashville 1992) 469; J.B.
Green, The Gospel of Luke (NICNT;
Grand rapids 1997) 672.