Thursday, 17 April 2025

THẦN HỌC GIOAN. ĐẶC TÍNH GIÁO HỘI TRONG TRÌNH THUẬT THƯƠNG KHÓ Ga 19,16b-30



TÓM LƯỢC

Thần học của Gioan về cái chết của Đức Giêsu được xây dựng chủ yếu bởi lời tường thuật về cái chết của Đức Giêsu. Đọc kỹ bốn chi tiết trên thập tự giá: (1) dòng chữ khắc trên đầu Chúa (19,19-22); (2) chiếc áo dài liền từ trên xuống dưới, không có đường may (19,23-24); (3) mẹ của Đức Giêsu và Người môn đệ được yêu mến (19,25-27) và (4) những lời cuối cùng của Đức Giêsu (19,28-30). Những chi tiết này phát triển các chủ đề kết nối chúng với các đoạn văn trước đó và cho thấy Gioan diễn giải cái chết của Đức Giêsu với sự quan tâm đến ý nghĩa giáo hội học của nó.

1.     GIỚI THIỆU

Chủ đề ‘Thần học về Tường thuật Khổ nạn của Gioan’, hoà trộn thần học, tường thuật Khổ nạn và phê bình thuật chuyện – có nhiều chuyện để bàn hơn là những gì có thể được trình bày trong một bài viết duy nhất. Tôi hy vọng sẽ chỉ ra rằng tường thuật Khổ nạn thực sự là cốt lõi của Tin Mừng Gioan, và bất kỳ diễn giải cẩn thận nào về tường thuật Khổ nạn đều phải đọc nó như một phần của toàn bộ tường thuật Tin Mừng, và đọc nó với sự chú ý đặc biệt đến thần học của nó. Có lẽ trước tiên chúng ta nên tự nhắc nhở mình về sự khác biệt giữa tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu so với các sách Tin Mừng Nhất lãm. Các yếu tố trung tâm của các tường thuật Nhất lãm không xuất hiện trong Gioan. Trong trình thuật của Gioan, không có (1) sự chế giễu Đức Giêsu trên thập tự giá; (2) không có tên trộm ăn năn; (3) không có bóng tối, mặc dù Gioan thường chơi chữ với biểu tượng của ánh sáng và bóng tối; (4) không đếm giờ (ngoại trừ ghi chú trong 19,14 rằng đó là giờ thứ sáu), mặc dù Gioan đã nói nhiều lần về sự xuất hiện của giờ Đức Giêsu; (5) không có sự xé màn che, mặc dù Gioan kể về việc thanh tẩy Đền thờ vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu; (6) không có tiếng kêu than; (7) không có động đất; (8) không có sự mở ra của các ngôi mộ, mặc dù Gioan đã nói trước đó về việc mở các ngôi mộ và ghi lại sự sống lại của Lazarus; và (9) không có lời thú nhận của viên đại đội trưởng, mặc dù Gioan đặc biệt nhấn mạnh trong suốt Tin Mừng về việc công nhận Đức Giêsu là ‘Con Thiên Chúa.

Mặc dù thiếu rất nhiều đặc điểm của các tường thuật của các sách Tin Mừng Nhất lãm, Gioan kết hợp các yếu tố truyền thống xuất hiện trong các sách Tin Mừng khác với các diễn biến đặc trưng của Gioan theo một cách hấp dẫn và cực kỳ quan trọng. Khác một chút so các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu của Gioan vác thập tự giá của chính mình đến một nơi được gọi là “Đồi sọ” (Nơi Đầu lâu) (19,17), không có chuyện ông Simon Kyrênê vác thập giá cho Chúa. Những chi tiết khác của trình thuật Gioan, thì hầu như tương tự Tin Mừng Nhất Lãm. Họ đóng đinh Đức Giêsu cùng với hai người khác và đặt lên Người dòng chữ ‘Vua dân Do Thái’. Những người lính chia nhau quần áo của Người, Maria Mađalêna và những người phụ nữ khác đứng cạnh, những người lính đưa cho Đức Giêsu giấm hoặc rượu chua, và những lời cuối cùng của Đức Giêsu được ghi lại. Các nhân chứng xác nhận cái chết của Đức Giêsu, và sau đó thi thể Giuse Arimathêa đưa xuống và chôn cất. Rõ ràng đây chỉ là một phần chọn lọc các yếu tố từ các tường thuật về cuộc khổ nạn của Tin Mừng Nhất lãm, và mỗi tường thuật khác đều đưa ra cách miêu tả riêng biệt về cái chết của Đức Giêsu, nhưng số lượng lớn các điểm tương đồng giữa Gioan và các Tin Mừng khác tại thời điểm này - đặc biệt là khi Gioan không theo truyền thống Nhất lãm ở những nơi khác - cho thấy Gioan biết và tuân theo một truyền thống được xác định rõ ràng về cái chết của Đức Giêsu.

Xét đến những điểm khác biệt so với các sách Nhất lãm mà chúng ta đã lưu ý, rõ ràng là Gioan chỉ chọn một số yếu tố chính của truyền thống và phát triển chúng theo cách riêng của mình để nhấn mạnh các khía cạnh quan trọng về ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu. Vì vậy, chúng ta hãy xem Gioan đã phát triển tường thuật của mình về cái chết của Đức Giêsu như thế nào bằng cách sử dụng các yếu tố được chọn lọc này từ truyền thống và liên kết chúng với các chủ đề quan trọng trong Tin Mừng của ông.

Tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu tự nhiên được chia thành bảy phần, và việc chôn cất là phần kết luận: (i) Phần giới thiệu, sự đóng đinh (cc. 16b-18); (2) dòng chữ khắc trên đầu Chúa (cc. 19-22); (3) chiếc áo dài không đường may (cc. 23-24); (4) cảnh Mẹ của Đức Giêsu và Người Môn đệ Yêu Dấu (cc. 25-27); (5) Những lời cuối cùng của Đức Giêsu (cc. 28-30); (6) cảnh người lính đâm thủng hông Đức Giêsu (cc. 31-37); và (7) cảnh chôn cất (cc. 38-42). Đối với mục đích hiện tại của chúng ta, tôi sẽ tập trung vào bốn cảnh dẫn đến cái chết của Đức Giêsu (cc. 19-30).

2.     BẢN CHỮ VIẾT TRÊN ĐẦU CHÚA (cc. 19-22)

Tất cả các sách Tin Mừng đều ghi lại bản chữ khắc phí trên đầu Đức Giêsu, nhưng chỉ có Gioan chuyển cảnh này lên vị trí đầu tiên để nó theo ngay sau trình thuật chi tiết còn lại về cảnh trên thập giá. Cách diễn đạt của Gioan về bản chữ khắc cũng rất đặc biệt, chỉ có Gioan ghi lại rằng bản chữ khắc được viết bằng ba ngôn ngữ và chỉ có Gioan có phần tiếp theo của cuộc tranh luận của Philatô với các nhà chức trách Do Thái, lên đến đỉnh điểm trong tuyên bố của tổng trấn Philatô, ‘Những gì tôi đã viết, tôi đã viết.’ Gioan cũng mở rộng rất nhiều cảnh này, những gì không quá 17 từ trong bất kỳ sách Tin Mừng nào khác thì được đưa ra 75 từ trong Gioan. Rõ ràng, Gioan đặc biệt sử dụng yếu tố truyền thống này cho mục đích thần học của riêng mình. Việc khám phá cách bản chữ khắc phát triển các chủ đề quan trọng trong câu chuyện của Gioan sẽ giúp giải thích chức năng của nó ở đây.

Mỗi sách Tin Mừng có cách diễn đạt bản chữ khắc hơi khác nhau, mặc dù mỗi sách đều có tiêu đề, ‘Vua của người Do Thái’. Lời lẽ của Gioan là lời lẽ trang trọng nhất và do đó đã trở thành cơ sở cho cách viết tắt truyền thống của dạng chữ Latin của dòng chữ khắc trong nghệ thuật Kitô giáo, INRI (Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum). Lời tuyên bố này có ý nghĩa đặc biệt trong Gioan mà không có trong bất kỳ Tin Mừng nào khác vì cách nó phát triển các chi tiết từ các phần trước của Tin Mừng, thập tự giá như sự tôn vinh, vương quyền của Đức Giêsu, Đức Giêsu là vua của ‘người Do Thái’, mối quan hệ của Đức Giêsu với ‘thế giới’ và ý nghĩa của dòng chữ khắc như lời cuối cùng của Philatô về Đức Giêsu. Chúng ta có thể xem xét ngắn gọn từng điều này.

2.1  Thập tự giá như sự tôn vinh

Ba câu nói về sự nâng lên trong Gioan (3,14; 8,28; 12,32) chuẩn bị cho chúng ta hiểu cái chết của Đức Giêsu như một sự tôn vinh, một sự nâng lên. Người ta thường lưu ý rằng Gioan không coi việc đóng đinh Đức Giêsu là một sự sỉ nhục tiếp theo là sự tôn vinh mà chính là bước đầu tiên trong sự tôn vinh và vinh quang của Đức Giêsu. Sự phục sinh được nén lại trong sự đóng đinh để cả hai là các giai đoạn trong một chuyển động hướng lên. Bản thân cái chết là một phần không thể thiếu trong sự tôn vinh và vinh quang của Đức Giêsu - tất nhiên là được hoàn thành trong sự phục sinh. Trong Gioan 12,34, đám đông hỏi Đức Giêsu làm sao ông có thể nói rằng Con người cần phải được nâng lên. Trên thực tế, những gì Đức Giêsu đã nói (trong Ga 12,23) là giờ đã đến để Con người được tôn vinh (Ashton 1991,495). Ý tưởng ở đây là phiên bản của Gioan về đỉnh điểm của bài thánh ca về về sự tự huỷ của Đấng Kitô trong thư Philípphê 2,5-11, kết thúc bằng lời khẳng định rằng ‘mọi miệng lưỡi sẽ tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa để tôn vinh Đức Chúa Cha.’ Đức Giêsu sẽ được tôn vinh là Con người bằng cách thu hút mọi người đến với chính mình qua cái chết của Ngài, và trong Đức Giêsu này, Con tôn vinh Chúa Cha. Cái chết của Đức Giêsu, khi đó - không chỉ là sự ca ngợi và tôn vinh dành cho Thiên Chúa - là sự mặc khải về bản chất của Thiên Chúa. Nó ảnh hưởng đến sự cứu rỗi mà nó tiết lộ và tuyên bố (Cf. Smith 1995,121, ‘Mô tả về cái chết của Đức Giêsu như sự tôn vinh và vinh quang là một cách nhấn mạnh tính chất mặc khải của nó’).

2.2  Vương quyền của Đức Giêsu

Mặc dù thuật ngữ ‘vương quốc của Chúa’ chỉ xuất hiện trong Gioan 3,3 và 5, lời tuyên xưng Đức Giêsu là ‘Vua’ ngày càng trở nên quan trọng trong phần sau của Tin Mừng. Chủ đề được công bố trong chương đầu tiên khi NathanaEL, một người IsraEL đích thực, tuyên xưng rằng Đức Giêsu là ‘Vua của IsraEL’ (1,49). Sau khi cho 5.000 người ăn, đám đông nhận ra rằng Đức Giêsu là ‘vị ngôn sứ sẽ đến thế gian’ và cố gắng tôn Ngài lên làm ‘vua’ theo điều kiện của họ (6,15). Trong Gioan 12, Đức Giêsu được Maria ở Bêthania xức dầu và cưỡi lừa vào Jêrusalem giữa những cành lá cọ và tiếng reo hò ‘Hosanna!’ Người thuật chuyện trích dẫn sách Dacaria 9,9 để diễn giải cảnh này, ‘Đừng sợ, hỡi con gái Sion. Này, vua của ngươi đang đến, ngồi trên lưng lừa con’ (12,15). Tại phiên tòa, Philatô hỏi Giêsu về vương quyền của Người và giới thiệu Giêsu với đám đông với lời tuyên bố, ‘Này vua của các ngươi!’ (19,14).

Những tham chiếu này hòa trộn với những ám chỉ về sự tôn vinh và tôn cao của Đức Giêsu, chuẩn bị cho người đọc nắm bắt được sự miêu tả về sự đóng đinh của Đức Giêsu như là bước đầu tiên trong quá trình lên ngôi của Người.

2.3  Đức Giêsu là vua của ‘người Do Thái’

Chữ khắc không chỉ tuyên bố Đức Giêsu là ‘vua’. Nó tuyên bố rằng Người là ‘Vua của người Do Thái’, đưa chủ đề về sự phản đối của người Do Thái đối với Đức Giêsu lên đến đỉnh điểm tại thập tự giá. Lời mở đầu cho chúng ta biết rằng Lời (Logos) đã đến ‘với nhà mình, và người nhà đã không tiếp nhận Người’ (1,11). Từ chương 5 trở đi, sự phản đối của “Những người Do Thái” (Ioudaioi) - những người thường xuất hiện như những nhà chức trách tôn giáo - ngày càng gia tăng. Trong mong muốn giết Đức Giêsu, họ cố gắng bắt giữ Người, họ cầm đá chống lại Người, và cuối cùng triệu tập Hội Đồng để âm mưu chống lại Người. Cuộc trò chuyện đầu tiên của Đức Giêsu với Philatô xoay quanh vấn đề về danh tính của Người là vua của người Do Thái. Philatô hỏi, ‘Ngươi có phải là vua của người Do Thái không?’ (18,33). Đức Giêsu không đưa ra câu trả lời trực tiếp mà chuyển câu hỏi trở lại Philatô. Philatô đáp trả một cách chế giễu, “Ta có phải là người Do Thái không?” (18,35), và Đức Giêsu tuyên bố rằng vương quốc của Người không thuộc về thế gian này (18,36). Khi Philatô viết rằng Đức Giêsu thực sự là “Vua của người Do Thái”, ông tuyên bố sự minh oan cho Đức Giêsu. Người Do Thái trong Tin Mừng có thể từ chối quyền tối cao của Đức Giêsu và tuyên bố rằng họ không có vua nào ngoài Xêda (19,15), nhưng họ không thể phế truất vua của mình. Trớ trêu thay, ngay cả khi họ buộc Philatô phải nghe theo lời kêu gọi đóng đinh Đức Giêsu của họ, Philatô vẫn chứng nhận quyền tối cao của Đức Giêsu đối với họ. Sự phản đối của những người Do Thái đối với Đức Giêsu mạnh đến mức dường như họ phản bội lại chính mình và dân tộc mình. Họ thà thừa nhận vua ngoại bang đô hộ là vua của mình, hơn là nhận đức Giêsu.

2.4  Mối quan hệ của Đức Giêsu với “thế gian”

Ý nghĩa của việc khắc dòng chữ bằng ba ngôn ngữ là gì? Các nhà phiên dịch thường lưu ý rằng ba ngôn ngữ - tiếng Do Thái, tiếng La-tinh và tiếng Hy Lạp - đại diện cho ba nền văn hóa gặp nhau ở Juđêa: tiếng Do Thái, ngôn ngữ của Kinh thánh (sách thánh Hípri); tiếng La-tinh, ngôn ngữ của Đế chế; và tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ của nền văn hóa Hy Lạp - ngôn ngữ của tôn giáo, nhà nước và văn hóa. Các nhà phê bình lịch sử đã tự hỏi liệu những người lính thực thi việc hành quyết, có học thức hoặc có khuynh hướng dành thời gian để viết cáo trạng bằng ba ngôn ngữ hay không. Ý nghĩa của chi tiết này, chỉ có ở Gioan, thay vào đó nằm ở mối quan hệ của nó với cách Gioan diễn giải về cái chết của Đức Giêsu.

Trong câu thứ ba của những câu nói về sự nâng lên (12,32), Đức Giêsu tuyên bố rằng nếu Ngài được nâng lên, Ngài sẽ kéo mọi người đến với Ngài. Bây giờ, khi Ngài bị đóng đinh, danh tính Đấng Mêsia thực sự của Ngài được công bố cho tất cả mọi người bằng ba ngôn ngữ của khu vực. Có thể lưu ý đến sự tương đồng với trải nghiệm Lễ Ngũ Tuần trong Công vụ - mỗi người được nghe bằng ngôn ngữ của riêng mình. Đức Giêsu là Vua của người Do Thái, nhưng cái chết của Ngài có ý nghĩa đối với tất cả mọi người. Đó là phương tiện mà Ngài dùng để kéo mọi người đến với Ngài.

Điều này đặt ra câu hỏi liệu bằng cái chết của mình, Đức Giêsu có chiến thắng ‘thế gian’ chống đối Ngài hay không. Trên thực tế, chủ đề ‘Kristus victor’ (Kitô, người chiến thắng) có trong Gioan, mặc dù nó chỉ được gợi lên gián tiếp ở đây. Câu trước câu nói về việc được nâng lên trong Ga 12,32 nói rằng, ‘Bây giờ là lúc phán xét của thế gian này. Bây giờ, kẻ thống trị thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài’ (12,31; cf. 14,30; 16,11). Do đó, sự tôn vinh của Đức Giêsu, tuyên bố về vương quyền của Ngài và việc viết dòng chữ bằng ba ngôn ngữ chứng minh, rằng qua cái chết của mình, Đức Giêsu đã đánh bại ‘kẻ thống trị thế gian này’ và thiết lập một chủ quyền mới. Bây giờ, tất cả mọi người nên thừa nhận Ngài là vua của họ. Hàm ý tự nhiên của lễ đăng quang của một vị vua mới là quyền thống trị mới tạo ra một cộng đoàn mới, và chúng ta sẽ thấy điều này được mô tả trong các cảnh sau.

2.5  Dòng chữ khắc là lời cuối cùng của Philatô liên quan đến Đức Giêsu

Tính cách của Philatô cũng được phát triển chi tiết hơn trong Gioan so với bất kỳ Tin Mừng nào khác. Trong phiên tòa được dàn dựng khéo léo gồm bảy cảnh, Philatô di chuyển qua lại giữa Giêsu bên trong và các nhà chức trách Do Thái bên ngoài, những người với sự mỉa mai lớn sẽ không vào sân trong (Praetorium) vì sợ bị ô uế - ngay cả khi họ yêu cầu giết một người vô tội. Philatô hỏi Giêsu liệu ông có phải là vua của người Do Thái không, tuyên bố ông vô tội ba lần, đánh đòn ông, đề nghị thả một tù nhân và chất vấn Giêsu về thẩm quyền của ông. Philatô có phải là một nhân vật mạnh mẽ kiểm soát toàn bộ quá trình tố tụng hay là một nhân vật yếu đuối dễ bị tổn thương trước cả Giêsu và người Do Thái? Tôi nghĩ rằng Philatô là một nhân vật yếu đuối. Những lập luận mô tả một Philatô mạnh mẽ dựa trên các tài liệu tham khảo của Josephus về Philatô hoặc khả năng lịch sử nội tại không thể trọng lượng hơn khi giải thích cách Gioan mô tả đặc điểm Philatô so với các lập luận liên quan đến Giêsu lịch sử hoặc Gioan lịch sử khi chúng ta giải thích cách Gioan về mô tả đặc tính của Đức Giêsu hoặc Người môn đệ được yêu dấu. Cách Tác giả Tin Mừng thứ tư mô tả Đức Giêsu và tông đồ Gioan có thể rất khác so với Đức Giêsu và Gioan lịch sử, và hình ảnh Philatô dưới ngòi bút thần học của tác giả Tin Mừng thứ tu cũng vậy. Đó là một Philatô yếu đuối. Điểm yếu của Philatô thể hiện rõ ở chỗ người Do Thái buộc Philatô phải ra trước mặt họ, và mặc dù ông tuyên bố Đức Giêsu vô tội ba lần, nhưng cuối cùng Philatô vẫn giao nộp Người.

Giống như trong các cuộc đối thoại khác trong Tin Mừng, mối quan tâm duy nhất của Đức Giêsu là câu trả lời của Philatô với Người, ‘Ngươi tự ý nói điều này hay vì người khác đã nói với ngươi về Ta?’ (18,34). Philatô trả lời những gì ông nghe được từ người khác. Các nhà chức trách yêu cầu Đức Giêsu phải chết vì khi tự nhận mình là Con Thiên Chúa, ông đã phạm tội phạm thượng theo luật của họ. Trong Gioan 19,8, người thuật chuyện kể rằng khi Philatô nghe từ này, ông càng sợ hãi hơn. Câu này nghĩa mơ hồ. Philatô càng sợ hãi hơn vì ông nhận ra rằng các nhà chức trách sẽ không hài lòng với bất cứ điều gì ngoài cái chết của Đức Giêsu, hay ông càng sợ hãi hơn vì sau khi thẩm vấn Đức Giêsu, ông sợ rằng những lời tuyên bố của Đức Giêsu có thể là sự thật? Do đó, ông sẽ không chỉ xử tử một người vô tội mà còn là Con của Thiên Chúa!

Giống như những người khác trong Tin Mừng, đặc biệt là người phụ nữ Samari và người đàn ông mù, Philatô dường như từng bước thực hiện ít nhất một lời thú nhận một phần. Trong 19,5, Philatô nói với đám đông, ‘Này, là người.’ Sau khi Philatô nghe trong câu 8 rằng Đức Giêsu tự nhận mình là Con Thiên Chúa, ông hỏi Đức Giêsu câu hỏi quan trọng của Gioan về nguồn gốc của Người: ‘Ngươi từ đâu đến?’ (c. 9). Tuyên bố cuối cùng của Philatô, không thể không pha chút mỉa mai, là ‘Này, là vua các ngươi!’ (c. 14). Ít nhất, Gioan đã buộc Philatô phải đưa ra lời thú nhận thực sự. Mặt khác, chúng ta cũng có thể dễ dàng suy ra rằng, sau khi tuyên bố Đức Giêsu vô tội, Philatô nghi ngờ rằng những tuyên bố của Đức Giêsu là đúng và đưa ra phán quyết thực sự của mình trong sắc lệnh được viết ra, ‘Giêsu, người Nadarét, Vua dân Do Thái.’

Bản báo cáo của Gioan về dòng chữ khắc trên thập tự giá chứng tỏ có nhiều ẩn ý diễn giải cái chết của Đức Giêsu trong bối cảnh của Gioan. Bản chữ khắc tuyên bố Đức Giêsu được đăng quang làm vua, danh tính đấng cứu thế của Người là vua của người Do Thái, Người đã đánh bại ‘kẻ thống trị thế giới này’ và thực hiện lời hứa thu hút mọi người về với Người. Gioan đã lấy một yếu tố từ truyền thống và lấp đầy nó bằng một ý nghĩa mới.

3.     CHIẾC ÁO KHÔNG ĐƯỜNG CHỈ (cc. 23-24)

Việc rút thăm là một yếu tố truyền thống khác của cảnh đóng đinh được ghi lại trong cả ba sách Tin Mừng nhất lãm (Mc 15,24). Gioan đặt cảnh này sau phần tường thuật về bản chữ khắc. Trong khi các sách Tin Mừng nhất lãm mô tả cảnh này trong sáu đến mười hai từ, Gioan mở rộng cảnh phân chi áo thành 67 từ.

3.1  Trích dẫn

Trong cảnh mở rộng này, Gioan tường thuật rằng những người lính đã chia trang phục của Đức Giêsu thành bốn phần, mỗi người lính một phần. Vì bộ áo choàng của Đức Giêsu không có đường may nên những người lính đã rút thăm để lấy chiếc áo dài thay vì lấy tất cả các trang phục của Người. Câu chuyện của Gioan về những bộ quần áo do đó ứng nghiệm chính xác hơn Tv 22,19, mà Gioan trích dẫn bản Bảy Mươi (Tv 21,19) theo công thức ứng nghiệm. Việc tách chiếc áo dài ra khỏi phần còn lại của quần áo của Đức Giêsu, và lưu ý rằng nó không có đường may và rằng những người lính không muốn xé nó thành từng mảnh, mời gọi người phiên dịch đào sâu hơn vào ý nghĩa của chiếc áo dài không có đường may trong bối cảnh của Gioan.

3.2  Áo dài không có đường may, được dệt ‘từ trên xuống’

Một trong những manh mối đầu tiên mà người đọc được cung cấp là áo dài được dệt từ trên xuống (ἐκ τῶν ἄνωθεν, c.23). Từ ἄνωθεν xuất hiện trong ba bối cảnh khác trong Gioan. Nicôđêmô được cho biết rằng ông phải được sinh ra ἄνωθεν, mà ông đã nhầm lẫn khi cho rằng đó là sự ám chỉ đến một sự sinh ra về mặt thể xác khác, trong khi Đức Giêsu đang thách thức ông phải sinh ra một lần nữa từ trên cao, sự sinh ra của Thần Khí (3,3.7). Ngay sau đó, Đức Giêsu hoặc người thuật chuyện của Gioan khẳng định rằng ‘đấng đã đến từ trên cao thì ở trên hết mọi người’ (3,31), và nhắc lại lời khẳng định đó ở cuối câu thơ rằng, ‘đấng đã đến từ thiên đàng thì ở trên hết mọi người’. Trong cuộc trò chuyện của Giêsu với Philatô, ông đã bác bỏ lời cảnh báo của vị tổng trấn rằng bằng cách trả lời rằng Philatô không có thẩm quyền nào ngoại trừ thẩm quyền được ban cho ông ‘từ trên cao’ (19,11). Các nhà bình luận đã lưu ý đến sự chơi chữ ở đây, Quyền hạn của Philatô được hoàng đế La Mã trao cho ông, nhưng theo nghĩa xa hơn, ông chỉ có thể đưa Giêsu đến cái chết vì được Chúa trao cho quyền đó. Sự đảo ngược ở đây là Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30), và Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình trong Gioan (10,18). Philatô không thể kết án Đức Giêsu phải chết nếu Ngài không vâng lời Chúa Cha và đã quyết tâm hy sinh mạng sống của mình vì ‘những người của mình’.

Bây giờ, tại thập tự giá, những từ quan trọng này, là ἐκ τῶν ἄνωθεν, lại xuất hiện trong mô tả của người thuật chuyện về chiếc áo dài liền mạch. Nó được tạo ra theo cách này, được dệt từ trên xuống toàn bộ chiếc áo. Gioan thường sử dụng các tham chiếu đến các chi tiết thể lý theo những cách kịch tính. Người phụ nữ Samari để lại chiếc bình của mình bên giếng (4,28), những chiếc bánh dùng để nuôi đám đông được làm từ lúa mạch (6,9), khi Giuđa ra ngoài thì trời đã tối (13,30), khi các môn đệ nhìn vào ngôi mộ trống, họ thấy những tấm vải liệm nằm ở đó (20,6-7), và sau đó chúng ta sẽ được kể rằng ngay cả sau khi đánh bắt được nhiều cá, lưới vẫn không bị rách (21,11), và ngọn lửa trên bờ là ngọn lửa than, giống như ngọn lửa trong sân khi Phêrô chối Đức Giêsu (18,18; 21,9). Thiết kế liền mạch của chiếc áo dài mà Đức Giêsu để lại là ‘từ trên cao’ xuống. Do đó, có thể không quá lời khi nói rằng những gì đang xảy ra tại thập tự giá đều là một phần của bức tranh thêu về thiết kế mang tính cứu chuộc của Chúa.

3.3  Chiếc áo dài không rách

Việc chiếc áo dài là một mảnh liền, và những người lính quyết định không xé nó (μὴ σχίσωμεν), cho thấy chiếc áo dài liền mạch có liên quan đến việc Gioan nhấn mạnh nhiều lần về sự hiệp nhất của Giáo Hội. Đức Giêsu tuyên bố rằng sẽ có một đàn chiên, một người chăn (10,16), và khi được nâng lên, Ngài sẽ tập hợp mọi người lại với Ngài (12,32). Người thuật chuyện của Gioan tiếp tục chủ đề trong 11,52, bình luận rằng Đức Giêsu sắp chết để Ngài có thể tập hợp thành một những đứa con của Chúa đã bị phân tán. Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30), và Đức Giêsu đã cầu nguyện rằng các môn đệ của Ngài có thể là một, giống như Ngài và Chúa Cha là một (17,11.21.22.23). Như chúng ta đã lưu ý, lưới chứa mẻ cá lớn, có thể tượng trưng cho sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội, cũng không rách (οὐκ ἐσχίσθη, 21,11).

Theo nghĩa bóng, qua mô tả về chiếc áo dài liền mạch, Gioan gắn kết cái chết của Đức Giêsu với chủ đề về sự hiệp nhất. Khi ông thu hút mọi người đến với mình, ông thu hút họ vào một thân thể, một cộng đoàn. Do đó, sự hiệp nhất của Giáo Hội được đặt nền tảng trên thiết kế của Chúa. Những gì Chúa dệt, Chúa dệt toàn bộ, từ trên cao. Sự hiệp nhất của Giáo Hội dựa trên nguồn gốc chung của nó, tại thập tự giá. Tuy nhiên, cuối cùng, Gioan nhấn mạnh rằng sự hiệp nhất của các tín hữu bắt nguồn từ sự hiệp nhất của Đức Giêsu với Chúa Cha, vì vậy, giống như Đức Giêsu là một với Chúa Cha, ‘những người của Ngài’ sẽ tìm thấy sự hiệp nhất của họ thông qua sự hiệp nhất của họ với Ngài. Chỉ có một cây nho, một lưới, một đàn chiên, một người chăn, một Người Con, một chiếc áo dài liền mạch được dệt từ trên xuống.

Một lần nữa, Gioan đã lấy một yếu tố truyền thống của cảnh đóng đinh và phát triển nó theo cách riêng của mình để trong bối cảnh lớn hơn của Tin Mừng, nó mang thêm ý nghĩa và phục vụ cho việc diễn giải thêm ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu trên thập tự giá.

4.     MẸ CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ NGƯỜI MÔN ĐỆ NGƯỜI YÊU (cc. 25-27)

Mỗi sách Tin Mừng khác đều nêu tên những người phụ nữ đứng cạnh khi Đức Giêsu bị treo trên thập tự giá. Trong các sách Tin Mừng khác, sự hiện diện của những người phụ nữ như những chứng nhân cái chết của Đức Giêsu được nói đến sau khi cái chết của Người được tường thuật. Gioan đưa bối cảnh về phía trước và là sách Tin Mừng duy nhất ghi lại cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với mẹ Người và Người Môn đệ Yêu Dấu. Tất nhiên, Gioan cũng là sách Tin Mừng duy nhất ghi lại sự hiện diện của một môn đệ duy nhất tại thập tự giá, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm các môn đệ bỏ trốn hết. Trong số những người phụ nữ tại thập tự giá, Mátthêu và Máccô nêu tên ‘Maria, mẹ của Giacôbê và Giuse,’ nhưng Gioan là người duy nhất ghi lại sự hiện diện của thân mẫu của Đức Giêsu. Gioan dường như liệt kê bốn người phụ nữ tại thập tự giá, mẹ của Đức Giêsu, chị gái của bà, Maria, vợ của Clopas và Maria Mađalêna.

4.1  Một cảnh mang tính biểu tượng

Đức Giêsu nhìn thấy mẹ mình và Người Môn Đệ Yêu Dấu, và nói với mẹ mình, ‘Này người phụ nữ, đây là con bà,’ và nói với Người Môn Đệ Yêu Dấu, ‘Đây là mẹ của con,’ và người thuật chuyện kể rằng ‘từ giờ đó’, người môn đệ đã đưa bà về nhà mình. Qua nhiều thế kỷ, các nhà giải thích đã nghi ngờ rằng cảnh này có ý nghĩa biểu tượng. Có một chi tiết khiến chúng ta để là cả mẹ của Đức Giêsu và Người Môn Đệ Yêu Dấu đều không được nêu tên. Người ta cho rằng người mẹ và Người Môn Đệ Yêu Dấu đại diện cho một Ađam và Eva mới, IsraEL và Giáo hội, hoặc Kitô giáo Do Thái và Kitô giáo dân ngoại. Tôi tin rằng ý nghĩa biểu tượng của cảnh này không phải được tìm kiếm trong các ý nghĩa biểu tượng không hợp thời hoặc không liên quan đến Tin Mừng, mà là trong hình ảnh biểu tượng gắn liền với các chủ đề được phát triển trong chính Tin Mừng. Như thường thấy, mẹ của Đức Giêsu chỉ xuất hiện một lần ở nơi khác trong Tin Mừng, tại tiệc cưới ở Cana. Cảnh này theo một số khía cạnh là cảnh tương ứng của Gioan với cảnh trong Tin Mừng Nhất lãm mà Đức Giêsu hỏi ai là mẹ và anh em của Ngài (Mc 3,32-35; Lc 8,19-21). Câu trả lời gay gắt của Đức Giêsu với mẹ không phải là để che đậy trong nỗ lực sai lầm nhằm cứu vãn sự lịch sự của Đức Giêsu. Bằng câu trả lời của mình, Ngài đã tách mình khỏi mẹ mình. Từ nay trở đi, các mối quan hệ huyết thống sẽ là thứ yếu so với những mối quan hệ được sinh ra bởi tinh thần và được duy trì bởi đức tin. Ngài nói với Nicôđêmô trong chương tiếp theo rằng Ngài phải được sinh ra từ trên cao, bởi nước và Thần Khí. Những gì là xác thịt là xác thịt, và những gì là Thần Khí là Thần Khí (3,3-8). Những người anh em huyết thống của Đức Giêsu chỉ xuất hiện một lần trong Tin Mừng, ở đầu chương bảy, và ở đó người thuật chuyện kể rằng anh em của Ngài không tin vào Ngài (7,5). Tệ hơn nữa, thế gian không thể ghét họ, như thế gian ghét Ngài (7,7). Các mối quan hệ huyết thống của Đức Giêsu hoàn toàn vượt qua khi Ngài hoàn thành công việc mà Chúa Cha đã giao cho Ngài làm.

4.2  Người Môn đệ Được Yêu

Người Môn đệ Được Yêu được giới thiệu trong Gioan 13,23 với một đặc điểm đơn giản nhưng rõ ràng có ý nghĩa. Ông là môn đệ mà Đức Giêsu yêu thương, và ông dựa vào ngực Đức Giêsu (ἐν τῷ κόλπῳ τοῦ Ἰησου) - cũng giống như Đức Giêsu, người con duy nhất của Chúa Cha được giới thiệu ở phần cuối của lời mở đầu là ‘ở trong lòng Chúa Cha’ (1,18). Môn đệ được yêu thương xuất hiện ở tất cả các khoảnh khắc quan trọng của các sự kiện trung tâm của Tin Mừng, Ông ở trên ngực Đức Giêsu trong bữa ăn cuối cùng của Người, ông đưa Phêrô vào sân trong khi Đức Giêsu bị xét xử, ông đứng cạnh mẹ Đức Giêsu dưới chân thập giá, ông chạy cùng Phêrô đến ngôi mộ trống và là người đầu tiên, cũng là người duy nhất tin vào sự phục sinh ngay khi ông nhìn thấy những tấm vải liệm nằm ở đó, và ông là người đầu tiên nhận ra Chúa phục sinh tại Biển Galilê. Trong những câu kết thúc của Tin Mừng, Chúa phục sinh nói rằng Môn đệ được yêu sẽ làm chứng thực sự, và biên tập viên cuối cùng nói rằng Môn đệ được yêu thương là người đã viết những điều này và ‘chúng ta’ (cộng đoàn Gioan) biết rằng lời chứng của ông là có thật. Môn đệ được yêu đóng vai trò là người đại diện cho cộng đoàn Gioan; ông là người sáng lập và là người có thẩm quyền tông đồ của cộng đoàn.

4.3  Mẹ của Đức Giêsu

Những liên tưởng tượng trưng về mẹ của Đức Giêsu trong cảnh này khó xác định hơn. Trong cả hai cảnh mẹ của Đức Giêsu xuất hiện, Người gọi bà là ‘người phụ nữ’. Trong bài diễn văn từ biệt, như một phần trong cách diễn giải của Đức Giêsu về sự ra đi của mình, Đức Giêsu đã nhắc đến hình ảnh người phụ nữ đang chuyển dạ, khi đến giờ của mình, bà sinh ra một đứa con và không còn nhớ đến cơn đau chuyển dạ nữa (16,21).

Trong Tin Mừng Luca, mẹ Maria được cho biết rằng một thanh gươm sẽ đâm thấu tim bà (2,35). Trong Tin Mừng này, mẹ của Đức Giêsu đã nhận được một đứa con trai trên thập tự giá. Một mối liên hệ xa hơn nhưng không phải là không hợp lý có thể được tạo ra với hình ảnh người phụ nữ mặc áo mặt trời trong Khải Huyền 12,1-2, người sinh ra một đứa con trai được đưa lên trời, nhưng con thú vẫn tiếp tục ngược đãi người phụ nữ và ‘những người còn lại trong dòng dõi bà, những người tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa và có lời chứng của Đức Giêsu’ (Kh 12,17).

4.4  Ngôn ngữ biểu hiện

Bây giờ, tại thập tự giá, khi giờ của Đức Giêsu đã đến, Đức Giêsu sử dụng một công thức mặc khải “này” và ngôn ngữ biểu tả. Giống như một lời tuyên bố về hôn nhân, lời tuyên bố của Người thực sự hoàn thành hoặc tác động đến mối quan hệ mới mà nó tuyên bố. Bằng lời tuyên bố của mình, Đức Giêsu tạo nên một gia đình mới, mẹ và con trai.

4.5  ‘Những đứa con của Chúa’

Ngay từ đầu, Tin Mừng Gioan đã sử dụng phép ẩn dụ về mối quan hệ họ hàng để mô tả mối quan hệ mới của người tin với Chúa. Những người đáp lại sự mặc khải trong Đức Giêsu - những người được Chúa Cha kêu gọi, thu hút và lựa chọn và tin vào danh Đức Giêsu - được trao quyền để trở thành ‘con cái của Thiên Chúa’ (1,12). Hơn nữa, người thuật chuyện đã giải thích rằng Đức Giêsu không chỉ chết cho dân, mà còn để tập hợp tất cả những đứa con bị phân tán của Chúa lại với nhau (11,52).

4.6  Sự hình thành của một gia đình mới

Sự hình thành của gia đình mới này tại thập tự giá tạo nên hạt nhân cho cộng đoàn những người tin. Cộng đoàn Gioan coi Người Môn đệ Yêu Dấu là nhân chứng tận mắt, là mối liên kết của họ với Đức Giêsu. Không thể tránh khỏi, cộng đoàn sẽ đồng nhất với Người Môn đệ Yêu Dấu trong cảnh này. Địa vị mới của họ bắt đầu từ cây thập tự. Địa vị mới của những người theo Đức Giêsu một lần nữa được báo hiệu trong những lần hiện ra sau khi phục sinh. Đức Giêsu bảo Maria Mađalêna đi và nói với ‘các anh em’ của mình rằng, ‘Ta sẽ lên cùng Cha của Ta và Cha của anh em, cùng Thiên Chúa của Ta và Thiên Chúa của anh em’ (20,17), và Maria đã đi và nói với các môn đệ của Người rằng bà đã thấy Chúa và rằng Người đã nói những điều này. Ý nghĩa rất rõ ràng. Các môn đệ bây giờ đã trở thành anh em của Người. Gia đình mới đã được thành lập. Một lần nữa, Gioan đã lấy một yếu tố truyền thống của câu chuyện về cuộc khổ nạn (những người phụ nữ ở cây thập tự) và phát triển nó theo cách riêng của mình, thêm vào sự hiện diện của Người Môn đệ Yêu Dấu và những lời của Đức Giêsu với mẹ của mình và Người Môn đệ Yêu Dấu. Hiến pháp của cộng đoàn mới trong cảnh này là hành động cuối cùng của Đức Giêsu trước khi người thuật chuyện tường thuật rằng Đức Giêsu biết “mọi sự đã hoàn tất” (19,28). Những gì Đức Giêsu đã hoàn thành trên thập tự giá được mô tả trong cảnh quan trọng này là hiến pháp của một cộng đoàn mới, cộng đoàn “những kẻ thuộc về Người”. Do đó, ý nghĩa cứu chuộc của thập tự giá trong Gioan không chỉ là cá nhân mà còn là tập thể. Hơn cả một lý thuyết cơ bản về sự chuộc tội, Gioan có một giáo hội học cơ bản về thập tự giá.

5.     LỜI CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC GIÊSU, “TA KHÁT” VÀ “MỌI VIỆC ĐÃ HOÀN THÀNH” (cc. 28-30)

Mỗi sách Tin Mừng nhất lãm đều kể về việc mang rượu cho Đức Giêsu. Trong Mátthêu và Máccô, nó theo sau tiếng kêu của Đức Giêsu về sự bỏ rơi của Cha. Trong Luca, nó là một phần trong sự chế giễu Đức Giêsu. Trong Gioan, việc ban rượu giấm cũng liên quan đến lời của Đức Giêsu, nhưng ở đây tự nhiên hơn vì Đức Giêsu nói rằng Người “khát”. Đặc biệt, ​​Gioan duy trì yếu tố này của truyền thống và sử dụng nó để phục vụ cho thần học của mình. Trong số các sách Tin Mừng, chỉ có Gioan tuyên bố rõ ràng rằng việc ban rượu giấm đã ứng nghiệm lời Kinh thánh. Tuy nhiên, trái ngược với những tuyên bố về sự ứng nghiệm trong câu 24 về việc chia áo trong của Chúa và các câu 36 (không cái xương nào bị gãy) và 37 (nhìn xem Đấng họ đâm thâu), đoạn Kinh thánh nói về việc trao rượu giấm không được trích dẫn.

5.1  Sự nhấn mạnh đến sự hoàn tất

Người đọc có thể nhận thấy sự nhấn mạnh lặp lại về sự hoàn tất trong những câu. Người thuật chuyện thuật lại rằng Đức Giêsu biết rằng mọi thứ giờ đã hoàn tất. Phân từ εἰδὼς xuất hiện trong hai bối cảnh khác trước đó trong Gioan. Trong 13,1, người thuật chuyện thuật lại rằng ‘Đức Giêsu biết rằng giờ của Ngài đã đến để rời khỏi thế gian này đến với Cha,’ và trong khu vườn, người thuật chuyện thuật lại rằng Đức Giêsu ‘biết mọi điều sẽ xảy đến với mình,’ đã bước tới để nói chuyện với những kẻ đối phương (18,4).

5.2  Sự hoàn thành sứ mệnh của Đức Giêsu

Ở đây, sau khi thành lập gia đình mới của ‘chính mình’ và biết rằng mình đã hoàn thành mọi điều mình phải làm, Đức Giêsu nói rằng Ngài khát. Người thuật chuyện bình luận rằng Đức Giêsu nói rằng Ngài khát để hoàn thành lời Thánh Kinh. Thuật ngữ được sử dụng ở đây là bất thường; nó có cùng gốc với gốc trong phần đầu của câu 28 và trong lời cuối cùng của Đức Giêsu trong câu 30, ‘Mọi việc đã hoàn tất.’ R. Brown (1994.2,1070) nhận xét rằng ‘Gioan muốn nhấn mạnh một cách mạnh mẽ về cách Đức Giêsu chết chỉ sau khi Ngài đã chấm dứt những gì Ngài đến để làm.’ Lời mở đầu nêu rằng Đức Giêsu đến để cho Chúa Cha được mọi người biết (1,18), và Gioan the Người Dìm chỉ ra Đức Giêsu cho các môn đệ của mình là ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng cất tội lỗi thế gian’ (1,29.36). Người thuật chuyện kể lại rằng Đức Giêsu đã trao quyền cho những ai tin vào Ngài để trở thành ‘con cái của Thiên Chúa’ (1,12), và Đức Giêsu nói rằng Ngài đã đến để chiên của Ngài có sự sống và để chúng có sự sống đó một cách dồi dào (10,10), và rằng Ngài đến để làm chứng cho sự thật (18,37). Trong suốt chức vụ của mình, Đức Giêsu chỉ chuyển động ứng với cảm nhận của riêng mình về thời gian. Không ai lấy đi sự sống của Ngài. Để ứng nghiệm Gioan 10,18, Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình - nhưng chỉ sau khi Ngài đã hoàn thành công việc mà Chúa Cha đã giao cho Ngài làm. Do đó, trong Tin Mừng Gioan, cái chết của Đức Giêsu đánh dấu sự hoàn thành sứ mệnh của Người là làm cho Chúa Cha được biết đến, xóa bỏ tội lỗi của thế gian, làm chứng cho sự thật và ban sự sống dồi dào cho ‘những người thuộc về Người’.

5.3  Cơn khát của Đức Giêsu

Người ta thường đồng ý rằng những bản văn Cựu Ước có khả năng nhất cho đoạn Kinh thánh được đề cập là Tv 69,21 hoặc 22,15; cả hai đều được trích dẫn ở những nơi khác trong những câu chuyện về cuộc khổ nạn. Tv 69 đề cập cụ thể đến cơn khát và những người phản đối cho người công chính uống giấm. Tuy nhiên, vì dữ liệu tham khảo trong Kinh thánh không được trích dẫn, nên có vẻ như không chắc chắn rằng ý nghĩa của cơn khát của Đức Giêsu chủ yếu nằm ở sắc thái của văn bản Cựu Ước (Cf. Brawley 1993,427-43; Culpepper 1996,199-205). Thay vào đó, chúng ta phải một lần nữa tìm kiếm ý nghĩa của cơn khát của Đức Giêsu trong chính Tin Mừng.

Mối liên hệ của τελειωθῇ (được hoàn tất) với công việc của Đức Giêsu và với cơn khát gợi nhớ đến những tham chiếu trước đó về cơn khát (và cơn đói) trong Tin Mừng, đặc biệt là Gioan 4 và Gioan 7,37-39. Kinh thánh đóng vai trò quan trọng trong cả hai đoạn văn. Người phụ nữ Samari nhớ lại ‘cha chúng ta là Jacob’, người đã đào giếng để thỏa cơn khát của họ; Gioan 7,38-39 đề cập đến một đoạn văn khó hiểu khác trong kinh thánh và dự báo về việc ban Thần Khí khi Đức Giêsu được tôn vinh. Bất kể người ta có đọc Gioan 19,28-29 như một sự lặp lại của Tv 69,21 hay không, bất kỳ độc giả nào bỏ lỡ mối liên hệ trong Gioan 19,28-29 với các tham chiếu về cơn khát trước đó trong Tin Mừng sẽ bỏ lỡ nhiều ý nghĩa tượng trưng, ​​ẩn dụ và mỉa mai trong lời tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu. Trong Gioan, thức ăn và đồ uống đối với Đức Giêsu là biểu tượng của một thực tại cao hơn. Tương tự như vậy, khi Phêrô cố gắng ngăn cản việc bắt giữ Đức Giêsu, Đức Giêsu đã trả lời, ‘Ta sẽ không uống chén mà Cha đã trao cho Ta sao?’ (18,11). Bây giờ, khi đã hoàn thành mọi điều mình phải làm, Đức Giêsu khát. Ngài đã sẵn sàng uống ngụm cuối cùng từ chiếc chén được trao cho Ngài. Chỉ trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu mới thực sự uống rượu chua được trao cho Ngài, và khi làm như vậy, Ngài ngụ ý cho việc uống chén đau khổ khi Ngài chết. Do đó, khi Đức Giêsu nói, ‘Ta khát’, Ngài không chỉ chỉ ra sự ứng nghiệm của Kinh thánh và sự ứng nghiệm của lời hứa ban nước sống cho những ai đến với Ngài; Ngài cũng ngụ ý nói về cho sự chết của chính Ngài.

5.4  Sự ứng nghiệm của Kinh thánh

Trong một số dữ liệu tham khảo khác về sự ứng nghiệm của Kinh thánh trong sách Gioan, văn bản tiền thân cũng không được xác định (x. Ga 2,22; 7,42; 17,12; 20,9). Trong mỗi câu này, như trong Gioan 19,28, có một dữ liệu tham khảo rõ ràng về Kinh thánh hoặc về sự ứng nghiệm này, các nhà chú giải hiện đại đã gợi ý rằng Tin Mừng có thể có nhiều hơn một văn bản được xem xét. Về cả hình thức và hiệu ứng, những tham chiếu này khác biệt đáng kể so với các tham chiếu về sự ứng nghiệm của sách Thánh trong đó một văn bản cụ thể được trích dẫn. Trong Gioan 19,28-29, nhiều yếu tố khác nhau của Sách Thánh được ứng nghiệm, người công chính khát, rượu chua được ban cho, cây kinh giới được sử dụng và Đức Giêsu từ bỏ Thần Khí.

5.5  Cây hương bài

Tất nhiên, việc nhắc đến cây hương bài báo hiệu sự ứng nghiệm của chủ đề Xuất hành trong Tin Mừng Gioan. Người thuật chuyện nói với người đọc ngay từ đầu rằng trong khi luật pháp đến qua Môsê, thì ‘ân sủng và chân lý đã đến qua Giêsu’ (1,17). Đức Giêsu đã được công bố với các môn đệ là ‘người mà Môsê và các tiên tri đã viết’ (1,45). Việc ‘nâng lên’ của Đức Giêsu sẽ giống như việc Môsê nâng con rắn bằng đồng lên trong sa mạc (3,14). Môsê không lên án Đức Giêsu, nhưng làm chứng về Người (5,45-46). Giống như Môsê, Đức Giêsu nuôi dưỡng đám đông trong sa mạc và băng qua biển, chứng minh rằng chính Người là bánh sự sống đích thực, đã từ trên cao xuống. Chủ đề về việc Đức Giêsu ứng nghiệm vai trò của Môsê hoặc ‘vị ngôn sứ giống như Môsê’ đã hứa (Đnl 18,15.18) lên đến đỉnh điểm tại thập tự giá. Đức Giêsu cũng chết vào giờ giết những con chiên Vượt qua; thực hiện quy tắc giết chiên Vượt Qua, chân của Người không bị gãy; và ông uống rượu giấm từ cây hương bài được dâng cho Người khi Người chết.

5.6  Sự trớ trêu của cơn khát của Đức Giêsu

Những sự trớ trêu rõ ràng trong cảnh này cần được bình luận (cf. Moore 1993,207-27; idem 1994,43-64; Witkamp 1996,489-510). Những mâu thuẫn khó có thể trớ trêu hơn hoặc mạnh mẽ hơn, người cho nước hằng sống lại khát, sự thiếu hụt hoàn thành, việc trao rượu đi với ác ý, và việc uống làm cơn khát trầm trọng hơn. Tương tự như vậy, có một dữ liệu tham khảo về sự ứng nghiệm của Sách Thánh, nhưng câu văn không được trích dẫn. Sách Thánh không có mặt mà vắng mặt trong sự ứng nghiệm của nó. Trái ngược với những diễn giải gần đây do Werner Kelber và Stephen Moore đề xuất, khi Đức Giêsu nói rằng Người khát, người đọc không tưởng tượng rằng người đã cung cấp nước hằng sống sẽ không thể cung cấp nó. Ngược lại, người ta nắm bắt được sự trớ trêu cơ bản của câu chuyện về cuộc khổ nạn, rằng sự sống chỉ đến qua cái chết, rằng Đức Giêsu chỉ có thể ban nước sống cho người khác nếu chính Người khát (tức là chỉ khi Người hoàn thành sứ mệnh của mình). Bối cảnh của câu chuyện gợi ý sự hoàn thành hơn là sự thất vọng về lời đề nghị nước sống của Đức Giêsu: (1) khi chết, Đức Giêsu tuyên bố công việc của Người đã hoàn thành (‘Mọi sự đã hoàn tất’); (2) Người trút hơi thở cuối cùng, và sự mơ hồ hoặc chơi chữ cho thấy rằng có nhiều điều đang được nói đến hơn là chỉ đơn giản là Người đã chết (trao thần khí); và (3) khi cạnh sườn Người bị đâm thủng, nước và máu chảy ra từ Người (tương đồng với Gioan 7,37-39). Bị đánh đập, chảy máu và kiệt sức, Đức Giêsu không thể đáp ứng được những nhu cầu cơ bản nhất của mình. Bằng cách chịu đựng cơn khát cuối cùng này, Đức Giêsu tuôn đổ nước sự sống sẽ trở thành một nguồn nước trào lên sự sống vĩnh cửu (4,14). Câu thơ của nhà thơ Ben Jonson, ‘cơn khát từ tâm hồn dâng lên xin một thức uống thiêng liêng’ (The Forest, ix: To Celia), mô tả cơn khát của Đức Giêsu cũng như cơn khát của những người tìm kiếm nước sống từ Người.

5.7  Trao ban Thần Khí

Lời tường thuật của người thuật chuyện rằng Đức Giêsu cúi đầu và ‘trao ban Thần Khí’ (19,30) cộng hưởng với lời bình luận của người thuật chuyện trong Gioan 7,39 rằng Thần Khí vẫn chưa được ban cho vì Đức Giêsu vẫn chưa được tôn vinh. Trong bài diễn văn từ biệt, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ của mình rằng tốt hơn cho họ là Người ra đi vì khi Người ra đi, Người sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến ở cùng họ (16,7). Do đó, người đọc đã được chuẩn bị để hiểu rằng khi Đức Giêsu chết, Thần Khí sẽ đến từ Đức Giêsu và Chúa Cha để hướng dẫn cộng đoàn các môn đệ sau khi Đức Giêsu chết. Tác giả đã đang tinh tế nhắc nhở người đọc về lời hứa này thông qua cách ông kể lại cái chết của Đức Giêsu. Không cần phải giải thích thêm, chúng ta có thể lưu ý một lần nữa rằng Tin Mừng của Gioan đã sử dụng các yếu tố truyền thống của câu chuyện về cuộc khổ nạn - những lời cuối cùng của Đức Giêsu, việc trao rượu giấm và cái chết của Đức Giêsu - và sử dụng chúng để hoàn thành các chủ đề quan trọng đã được phát triển trước đó trong Tin Mừng. Và một lần nữa cái chết của Đức Giêsu đã được giải thích với sự nhấn mạnh vào ý nghĩa của nó đối với cộng đoàn tín đồ, Bằng cái chết của mình, Đức Giêsu đã hoàn thành công việc mà Chúa Cha đã giao cho Ngài làm; Ngài đã yêu thương những người của mình cho đến cùng (Cf. 13,1); Ngài đã hoàn thành các lời Sách Thánh, đặc biệt là cơn khát của người công chính khi Ngài chết và việc sử dụng cây hương bài trong cuộc Xuất hành; Ngài cung cấp nước sự sống; và Ngài trao ban Thánh Linh mà Ngài đã hứa khi Ngài chết. Do đó, thần học về thập tự giá của Gioan được phát triển một cách khéo léo trong phương thức tường thuật của Tin Mừng. Bằng cách đọc lời tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu, người ta có thể nắm bắt lại ý nghĩa của nó và tiếp thu một cách chủ động những gì nó đã hoàn thành trong lịch sử.

6.     Ý NGHĨA GIÁO HỘI HỌC CỦA CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU

Trong suốt phần bình luận này về tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu, tôi đã gợi ý rằng Gioan liên tục phát triển các yếu tố của truyền thống theo những cách tỏ lộ ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu. Khi giới thiệu mỗi cảnh trong bốn cảnh này trên cây thánh giá, chúng ta đã lưu ý rằng Gioan đã lấy một yếu tố từ truyền thống và phát triển nó theo cách riêng biệt của mình. Hơn nữa, mỗi cảnh này đều có ý nghĩa đối với sự hình thành của Giáo Hội. Bây giờ chúng ta có thể tập hợp các mô thức giáo hội mà chúng ta đã ghi chú trên suốt hành trình.

Bằng cách phát triển các yếu tố truyền thống cụ thể này, Gioan đã nhiều lần nhấn mạnh ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu đối với Giáo Hội. Dòng chữ tuyên bố lễ đăng quang của Đức Giêsu là ‘Vua của người Do Thái’. Ba ngôn ngữ mà dòng chữ được viết báo hiệu tính phổ quát của quyền tối cao của Đức Giêsu. Khi được nâng lên, Ngài sẽ thu hút tất cả mọi người đến với mình. Cái chết của Ngài làm ứng nghiệm Sách Thánh. Cụ thể hơn, thiết kế cho sứ mệnh cứu chuộc của Đức Giêsu, giống như thiết kế của chiếc áo dài liền mạch, được dệt từ trên xuống. Đó là thiết kế của Chúa. Thực tế là chiếc áo dài không bị rách phản ánh ý định của Chúa rằng cộng đoàn những người tin Chúa phải là một. Ở một số khía cạnh, thần học về thập tự giá của Gioan có mối quan hệ với các thần học sau này ‘Kristus Victor’. Nghịch lý thay, qua cái chết của mình, Đức Giêsu đã chiến thắng quyền lực của cái ác, Ngài được tôn lên làm vua, Ngài hoàn thành công việc mặc khải và cứu chuộc của mình, và Ngài thiết lập cộng đoàn mới. Ở đây chúng ta có thể dừng lại để nhấn mạnh tính cấp tiến của tầm nhìn của Gioan đối với cộng đoàn mới.

Công việc của Tin Mừng không biết đến ranh giới quốc gia, và cuối cùng, nó phải đối mặt với cùng một thách thức ở mọi nơi. Ngôn ngữ luôn đánh dấu bản sắc văn hóa, cho dù là tiếng Hy Lạp, tiếng La-tinh và tiếng Do Thái; tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, hoặc tiếng gần đây được gọi là Ebionics; tiếng Anh và tiếng Afrikaans, hoặc nhiều ngôn ngữ và giọng khác nhau báo hiệu di sản văn hóa của chúng ta. Lời tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu nói trong cùng bối cảnh của ba ngôn ngữ và một chiếc áo dài liền mạch, không rách. Một cộng đoàn mới được thành lập tại thập tự giá bởi cái chết của Đức Giêsu. Đó là một gia đình mới, một người mẹ và một Môn đệ Yêu dấu, và được trao quyền bởi Chúa Thánh Thần đã hứa. Giáo hội phải là một cộng đoàn được đánh dấu bằng sự hiệp nhất, tình yêu và Chúa Thánh Thần, một cộng đoàn với một vị vua mới, một vị vua bị đóng đinh. Đấng Mêsia bị đóng đinh khát, và bằng cơn khát của mình, Người đồng nhất với tất cả những ai đang khát. Qua cái chết của mình, Người ban sự sống. Theo cách này, cách diễn giải của Gioan về truyền thống làm nổi bật các yếu tố có ý nghĩa về mặt giáo hội học, và cách diễn giải lại truyền thống này phản ánh một sự hiểu biết thần học cơ bản, Giáo Hội không chỉ được thành lập trên sự phục sinh của Đức Giêsu mà còn có nguồn gốc từ thập giá. Do đó, những gì đã xảy ra trên thập giá định hình cho mọi thời đại bản chất và thiết kế của Giáo Hội.

Trong bài viết này, tôi đã cố gắng chứng minh rằng tác giả Tin Mừng thứ tư đã chọn những yếu tố quan trọng từ truyền thống, rằng ông phát triển những yếu tố này trong câu chuyện về cuộc khổ nạn như một phần không thể thiếu và thực sự là phần cao trào của toàn bộ Tin Mừng, và rằng khi chúng ta đọc những cảnh này trong bối cảnh của câu chuyện Tin Mừng, chúng ta thấy rằng Gioan thực sự có một thần học mạch lạc về thập tự giá, và cụ thể hơn là một giáo hội học về thập tự giá dự kiến ​​một thiết kế đầy thách thức cho Giáo hội. Do đó, tôi xin đưa ra năm kết luận sau,

1. Bất chấp tất cả những điểm khác biệt so với các Tin Mừng khác, Gioan đã rút ra từ truyền thống về cái chết của Đức Giêsu bao gồm nhiều yếu tố giống như chúng ta tìm thấy trong các Tin Mừng nhất lãm. Tuy nhiên, Gioan dường như không rút ra bất cứ điểm nào, trực tiếp từ các Tin Mừng nhất lãm.

2. Tác Giả Tin Mừng thứ tư đã chọn và phát triển một số yếu tố nhất định từ truyền thống theo cách riêng của mình và cho mục đích riêng của mình. Cách Gioan xử lý truyền thống và sự phát triển của bốn cảnh này xung quanh các chủ đề của Gioan minh họa cách Gioan đã xây dựng một cách giải thích tường thuật về cái chết của Đức Giêsu. Câu chuyện hiện nay vừa là ẩn dụ cho ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu vừa là phương thức để lôi kéo độc giả của Gioan vào ẩn dụ đó.

3. Những điểm nhấn đặc biệt của câu chuyện về cuộc khổ nạn của Gioan được thể hiện rõ khi chúng ta theo dõi sự phát triển của các chủ đề của Gioan đạt đến đỉnh điểm trong câu chuyện về cuộc khổ nạn. Trái ngược với khẳng định của Kasemann, lời kể của Gioan về cái chết của Đức Giêsu thực sự ‘phù hợp một cách hữu cơ với tác phẩm của ông’ (1968,7)

4. Lời tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu làm nổi bật ý nghĩa của nó đối với Giáo Hội, truy tìm nguồn gốc của cộng đoàn mới đến thập tự giá: một mối quan hệ họ hàng mới vượt qua những khác biệt về ngôn ngữ, dưới quyền tối cao của Đức Giêsu, không bị chia rẽ bởi sự ly giáo, và được duy trì bởi ‘nước sự sống’ và Thần Khí được cấu thành ở đây. Lời tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu phản ánh một hiểu biết thần học quan trọng: rằng Giáo Hội có nguồn gốc từ thập tự giá (không chỉ ở ngôi mộ trống), và do đó, những gì đã xảy ra trên thập tự giá cho thấy kế hoạch của Chúa dành cho Giáo Hội và sẽ mãi mãi xác định sứ mệnh và cuộc sống của Giáo Hội.

Tóm lại, có thể không lạc lõng khi lưu ý rằng không thể thay thế cho các học giả thú nhận giải thích các văn bản Kinh Thánh trong bối cảnh của Giáo Hội và cho Giáo Hội. Chức năng của văn bản Kinh Thánh là bảo tồn và liên tục tái hiện những câu chuyện nền tảng về các hành động cứu chuộc của Chúa trong lịch sử, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô và tầm nhìn sáng lập của Giáo Hội. Lời kêu gọi của những người giải thích Kinh Thánh là thăm dò những sắc thái của bản văn và đọc những câu chuyện của nó một cách nhạy bén trong bối cảnh luôn thay đổi của chúng ta. Lời kêu gọi của Giáo Hội là trung thành với những câu chuyện Kinh Thánh, rao giảng Tin Mừng của họ và thách thức cộng đoàn đại diện cho mục đích cứu chuộc của Chúa ngày càng trọn vẹn hơn giữa chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy khích lệ lẫn nhau trong nhiệm vụ này.

Jos. Phạm Duy Thạch, SVD

[Chuyển ngữ từ “The theology of the Johannine passion narrative: John 19:16b-30” của tác giả R. Alan Culpepper, trong NEOTESTAMENTICA 31(1) 1997.]

 

WORKS CONSULTED

Ashton, J., 1991. Understanding the Fourth Gospel. Oxford, Clarendon.

Brawley, R.L., 1993. An absent complement and intertextuality in Gioan 19,28-29. JBL 112, 427--43.

Brown, R.E. 1994. The death of the Mêsiah. 2 vols. New York, Doubleday.

Culpepper, R.A., 1996. Reading Gioan irony, in Culpepper, R A & Black, CC (eds), Exploring the Gospel of Gioan, In honor of D. Moody Smith, 199-205. Louisville, Westminster/Gioan Knox.

De Boer, M.C., 1996. Gioan perspectives on the death of Giêsu. Kampen, Kok Pharos.

Kasemann, E., 1968. The testament of Giêsu. Philadelphia, Fortress.

Moore, S.D., 1993. Are there impurities in the living water that the Gioan Giêsu dispenses? Deconstruction, feminism, and the Samaritan woman. Biblical Interpretation 1,207-27.

Moore, S.D., 1994. Poststructuralism and the New Testament, Derrida and Foucault at the foot of the cross. Minneapolis, Fortress.

Smith, D.M., 1995. The theology of the Gospel of Gioan. Cambridge, Cambridge University

Press.

Witkamp, L.T., 1996. Giêsu’ thirst in Gioan 19,28-30, Literal or figurative? JBL 115,489-510.

Professor R.A., Culpepper. Dean. McAfee School of Theology. Mercer University. 3001 Mercer University Drive. Atlanta. GA 30341-4415. USA. Guest Lecturer. Department of New Testament. Unisa. POBox 392. Pretoria. 0003 South Africa.

 

Saturday, 12 April 2025

VỤ ÁN CỦA ĐỨC GIÊSU, NGƯỜI TỬ TÙ VÔ TỘI. Chú Giải Lc 22,1 - 23,56.

 


XUNG ĐỘT VÀ ÂM MƯU

Ngay từ đầu, tác giả Luca cũng cho biết Hài Nhi Giêsu được đặt lên cho sự ngã xuống hay đứng lên của nhiều người trong IsraEL và thành dấu hiệu bị chống đối, và gươm sắt sẽ thâu qua lòng Đức Maria (Lc 2,34-35). Sự chống đối Đức Giêsu xuất hiện sớm trong các sách Tin Mừng, chủ yếu là do Người vi phạm luật ngày Sabát (Lc 6,1-11; Mc 3,1-6; Mt 12,1-14); Ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế (Lc 5,29-32; 15,1-2; Cf. Mt 9,10-13; Mc 2,15-17). Xung đột bắt đầu lên cao trào có lẽ là trong sự kiện Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ, với lời trách nặng nề rằng: “Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Lc 19,46). Sau vụ này, “các Thượng Tế, và Kinh Sư đã tìm cách giết Người. Cả các thân hào trong dân cũng vậy, nhưng họ không biết làm thế nào vì toàn dân say mê nghe Người” (Lc 19,47-48). Sau khi Đức Giêsu kể dụ ngôn “tá điền sát nhân” xung đột càng tăng lên. Vì biết rằng Đức Giêsu nhắm vào họ, nên “các Kinh Sư và Thượng Tế tiếp tục tìm cách bắt Người, nhưng họ lại sợ dân” (Lc 20,19). Ngoài ra, Đức Giêsu cũng khiển trách các Kinh Sư nặng nề vì họ là “những người ưa dạo quanh trong bộ áo dài, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong các hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh lâu giờ” (Lc 20,45-47). Vì tất cả những xung đột ấy, nên ngay trước đại Lễ Vượt Qua, các Thượng Tế và các Kinh Sư lại âm mưu thủ tiêu Đức Giêsu. Các Thượng Tế và các Kinh Sư là hai tầng lớp đứng đầu dân Do Thái về quyền lực và chuyên môn. Thượng Tế là người đứng đầu Thượng Hội Đồng Do Thái. Các Kinh Sư là các nhà chuyên môn về Sách Thánh và Lề Luật. Nếu họ muốn Đức Giêsu chết thì họ có đủ quyền lực và âm mưu để giết Người. Vụ án của Đức Giêsu phát xuất từ âm mưu rõ ràng của một nhóm người. Tuy nhiên, nó cũng không nằm ngoài kế hoạch cứu độ của Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha.

SỰ TRAO BAN ĐỨC GIÊSU VÀ SỰ CHỐI TỪ CỦA CÁC MÔN ĐỆ

Sự chủ động của Đức Giêsu: Trao ban mạng sống vì tình yêu dành cho nhân loại

Thánh Phaolô đã giúp chúng ta hiểu điều này qua nhiều lần khẳng định: “Đức Giêsu chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta” (Rm 4,25); “Đức Kitô chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3); “Đức Giêsu Kitô đã tự hiến vì tội lỗi chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa là Cha chúng ta” (Gl 1,4). Ông Gioan Tẩy Giả thì giới thiệu rằng: “Đây Chiên của Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1,29.36). Đức Giêsu thì khẳng định rằng: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,18). Hy sinh tính mạng vì “người thương của mình” là tình yêu cao cả nhất: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì người thương của mình” (Ga 15,13). Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết là Người sẽ hiến dâng thân mình vì họ: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (Lc 22,19) và máu Người sẽ đổ ra vì họ: “Chén này là Giao Ước mới được lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20).

Trước đó, Đức Giêsu cho thấy Người hoàn toàn chủ động trong hành trình Thập Giá, qua việc Người đã nói trước đến ba lần. Lần thứ nhất, “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, Thượng Tế và Kinh Sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; Mt 16,21-23). Lần thứ hai, “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (Lc 9,44; Mc 9,30-32). Lần thứ ba, “này chúng ta lên Jêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Người sẽ được hoàn tất… Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người và ngày thứ ba, Người sẽ sống lại” (Lc 18, 31-33; Mc 10,32-34).

Đấu tranh nội tâm và chọn lựa: Chén đắng (Lc 22,39-46; Mt 26,36-46; Mc 14,32-42). Cảnh cầu nguyện của Đức Giêsu trong Luca ngắn hơn các Tin Mừng còn lại. Tuy nhiên, chỉ một mình tác giả Luca ghi lại chi tiết đặc biệt: Đức Giêsu cầu nguyện khẩn thiết đến độ mồ hôi của Người như máu nhỏ xuống đất (Lc 22,44). Cuối cùng, Người đã sẳn sàng đón nhận ý của Cha: “Xin đừng cho ý con được thể hiện mà là ý của Cha”. Trong buổi cầu nguyện này, Đức Giêsu cho thấy Người hoàn toàn tự do chọn lựa cuộc khổ nạn và ung dung bước vào, dù cho Người đã phải trải qua một cuộc chiến đấu nội tâm mạnh mẽ.

Phản ứng của các môn đệ: Trao nộp, bỏ trốn, và chối từ

Sự cộng tác của Tông Đồ Giuđa (Lc 22,3-6.47-53): Tác giả Luca ghi chú rằng Tông Đồ Giuđa đã bị quỷ nhập vào. Nghĩa là, quỷ đã hướng dẫn các hành động của hắn. Hắn đi gặp các Thượng Tế và Lãnh Binh đền thờ để hiến kế nộp Người sao cho không có đám đông dân chúng (x. Lc 23,3-6). Sau đó, dù đã được Đức Giêsu nhắc nhở, ông Giuđa vẫn theo đuổi kế hoạc của ma quỷ. Trong Vườn Cây Dầu, Giuđa đã dẫn đầu đám đông gồm các Thượng Tế, các Kỳ Mục, Lãnh Binh đền thờ, ông lại gần để hôn Đức Giêsu tỏ ý chỉ điểm cho họ bắt Người. Động lực cho hành động của Giuđa thường được suy đoán như là cách thức để ông ép buộc Đức Giêsu phải thể hiện uy quyền, nhằm chống lại đế quốc Rôma và giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, đối với tác giả Luca, vì động lực của tông đồ Giuđa rất khó lý giải, nên ông mặc cho hành động khó hiểu ấy một tác động của Xatan.[1] Chuyện Giuđa nộp Người cũng đã được báo trước (Lc 22,21-23). Điều này một lần nữa chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ hoàn toàn cục diện của vụ án.

Sự chối bỏ của Tông Đồ Phêrô (Lc 22,54-62): Sau khi các môn đệ đã bỏ chạy hết. Ông Phêrô vẫn theo Đức Giêsu nhưng xa xa để giữ mức an toàn cho mình. Ông không muốn người ta biết mình có bất cứ mối liên hệ nào với Đức Giêsu. Chính vì thế, khi có người nào phát hiện ra ông đã từng ở với Đức Giêsu thì ông lập tức chối ngay, ngay cả khi người ấy chỉ là một đầy tớ gái. Việc ông Phêrô chối là không quen biết Đức Giêsu, cũng không nằm ngoài dự báo của Đức Giêsu vì Người đã báo trước cho ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần” (Lc 22,34). Ánh mắt của Đức Giêsu quay lại nhìn ông giúp cho ông nhận ra lỗi lầm của mình, để rồi ăn năn, hối lỗi, khóc lóc (Lc 22,62). Cũng như hành động “nộp Thầy” của tông đồ Giuđa, hành động “chối Thầy ba lần” của tông đồ Phêrô cũng không nằm ngoài tác động của Xatan. Đức Giêsu đã bật mí rằng: “Simôn, Simôn ơi! Kìa Xatan xin được sàng anh em như sàng gạo” (Lc 22,31; x. sách Gióp), nhưng Đức Giêsu cũng đã cầu nguyện cho ông, để ông khỏi mất lòng tin và báo trước là ông sẽ trở lại (Lc 22,32). Có thể nói rằng, ông Giuđa và ông Phêrô, đều chịu tác động của Xatan và là hai hình ảnh tiêu biểu cho nhóm Mười Hai Tông Đồ, những người đã không thể hiểu và đón nhận ba lần tiền báo của Đức Giêsu về việc Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Lc 9,22.44; 18,31-33). Họ chỉ hy vọng rằng, Người sẽ xưng vương ở Jêrusalem và tiếp tục làm phép lạ, để họ cũng được chia sẻ vinh hoa, lợi lộc trần thế và nhất là đất nước được thoát khỏi nô lệ ngoại bang.

XỬ ÁN NGƯỜI CÔNG CHÍNH

Đức Giêsu trước Thượng Hội Đồng Do Thái

Trước khi ra trước Thượng Hội Đồng Do Thái, Đức Giêsu đã chịu lính canh nhạo báng, đánh đập và xúc phạm nặng nề (Lc 22,63-65). Thượng Hội Đồng gồm bảy mươi mốt thành viên, đứng đầu là Thương Tế (năm đó là Caipha), cùng với các thành viên thuộc nhóm Kinh Sư, Tư Tế, và Kỳ Mục.[2] Câu hỏi mà Thượng Hội Đồng đặt ra là: “Ông có phải là Đấng Kitô không?”. “Đấng Kitô của Thiên Chúa” là Danh Xưng mà ông Phêrô đã tuyên xưng để trả lời câu hỏi “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”. Đức Giêsu không chối từ lời tuyên xưng này. Sau đó, Đức Giêsu liền nói cho các ông biết “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kỳ Mục, Thượng Tế và Kinh Sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22). Lời tiền báo này ngụ ý rằng Đấng Kitô của Thiên Chúa là Đấng Kitô chịu khổ nạn, chịu chết và phục sinh. Tuy nhiên, trước câu hỏi của Thượng Hội Đồng Người dường như không nhìn nhận Người là Đấng Kitô vì họ không tin. Đức Giêsu mặc khải cho họ biết rằng “từ nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Đấng Toàn Năng”. Vì họ hiểu rằng Người tự xưng mình là Thiên Chúa, nên không cần lời chứng nữa. Ngụ ý rằng Đức Giêsu phạm thượng. Tội này đối với Thượng Hội Đồng Do Thái là tội chết, nhưng vì họ không có quyền lên án xử tử nên họ điệu Người đến với ông Philatô. Dầu vậy, ông Philatô chắc chắn không thể xử tội Người dựa trên tội phạm thường (loại tội thuần túy tôn giáo). Vì thế, chắc chắn họ phải tìm một tội danh khác để tố cáo Người trước tòa của ông Philatô.

Trước tòa tổng trấn Philatô

Lời tố cáo của các thành viên Thượng Hội Đồng Do Thái. Họ tìm một vài lý do liên quan đến chính trị để tố cáo Đức Giêsu trước ông Philatô, một lãnh đạo hoàn toàn về chính trị. Trước hết, họ tố cáo Đức Giêsu sách động dân tộc và ngăn cấm nộp thuế cho hoàng đế Xêda. Thứ hai, Người xưng mình là Mêsia và là vua. Mêsia ở đây nên hiểu là Mêsia có tính vương đế, cũng tương đương với vua.[3] Nếu không, danh hiệu này chẳng có ý nghĩa gì trước quan tổng trấn Rôma cả. Tất cả những tội này đều tày trời đối với một chính khách đang cai trị vùng Giuđê, vì nó ảnh hưởng đến quyền lực và quyền lợi của đế quốc.

Về việc nộp thuế, các Kinh Sư và Thượng Tế đã từng sai một số người giả bộ là công chính, đến để gài bẫy, hòng làm cho Đức Giêsu lỡ lời, để bắt Người mà nộp cho tổng trấn Philatô. Họ hỏi Người là: “Chúng tôi có được phép nộp thuế cho hoàng đế Xêda không?”. Đức Giêsu đã xin một đồng tiền Rôma và hỏi rằng “đồng tiền này mang hình và danh hiệu của ai đây?” khi họ đáp là “của Xêda”, Đức Giêsu mới nói: “Của Xêda trả về cho Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Lc 20,20-25). Như vậy, Đức Giêsu không ngăn cấm dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xêda.

Người cũng không sách động dân chúng. Người chỉ quy tụ họ và giảng dạy mầu nhiệm Nước Trời. Người cũng không xưng mình là Đấng Kitô, nhưng Người xưng mình là “Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng”, nghĩa là Con Thiên Chúa, và là Thiên Chúa. Ngay từ đầu, Người đã được sứ giả Gabriel giới thiệu là “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32).

Đức Giêsu cũng không tự xưng vương nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy Người là vua. Trong Tin Mừng Luca, ngay từ đầu Người được giới thiệu là con của ông Giuse, mà Giuse là con cháu vua Đavíd (Lc 1,27). Như vậy, Người cũng là hậu duệ của vua Đavíd. Sứ giả Gabriel đã gọi vua Đavíd là tổ tiên Người và ngai vàng vua Đavíd sẽ được ban cho Người (Lc 1,32). Các sứ giả cũng báo cho các mục đồng rằng: Đức Giêsu là “Đấng Cựu Độ, đã sinh ra trong thành vua Đavíd, Người là Đấng Kitô, Chúa” (Lc 2,11). Đức Giêsu tự giới thiệu mình khôn ngoan hơn Salômôn (Lc 11,31). Người mù ở Giêrikhô tuyên xưng Đức Giêsu là con vua Đavíd (Lc 18,38.39). Đức Giêsu chứng minh cho nhóm Kinh Sư và Xađốc rằng Đấng Kitô không những là con vua Đavíd nhưng là Chúa của vua Đavíd (Lc 20,41-44). Đức Giêsu đã vào thành Jêrusalem trong sự chào đón nồng nhiệt và reo hò của dân chúng: “Chúc tụng Đức vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa, bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19,35-38). Những người lính và các thủ lãnh, đã dùng danh hiệu “vua dân Do Thái” và “Đấng Kitô của Thiên Chúa” để thách thức Đức Giêsu xuống khỏi thập giá để cứu lấy chính mình. Bản án phía trên đầu Người cũng ghi rằng: “Đây là vua dân Do Thái” (Lc 23,35-38). Trong bối cảnh của cuộc xét xử này, ông Philatô không quan tâm đến danh hiệu Kitô. Ông hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?”. Người đáp trả lại: “Chính ngài nói đó” (Lc 23,3). Tác giả Gioan còn ghi lại cách Đức Giêsu nói về nước của Người: “Nước tôi không thuộc về thế gian này … tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật” (Ga 18,36-37). Có lẽ, nhóm thành viên Thượng Hội Đồng muốn nói là Đức Giêsu xưng vương để làm cho Philatô tức giận và sợ hãi. Tuy nhiên, xem ra, họ không thành công vì ông Philatô xem Đức Giêsu, nếu có, thì chỉ là một vị vua của người Do Thái, giống như tiểu vương Hêrôđê vậy. Ông Philatô có vẻ thương cảm và ái ngại cho Đức Giêsu hơn là sợ hãi hay là thù ghét, bởi vì, Đức Giêsu làm vua kiểu gì mà để cho dân mang nộp cho tổng trấn ngoại bang thế này.

Ông Philatô cố minh chứng Đức Giêsu vô tội. Ngược đời thay, trong khi những lãnh đạo Do Thái nộp Đức Giêsu cho tổng trấn Rôma và muốn ông xử tử Người, tổng trấn Rôma lại cố gắng chứng minh Người vô tội và muốn tha Người. Có ít nhất ba lần ông Philatô cố gắng chứng minh cho sự vô tội của Đức Giêsu. Lần thứ nhất, ông nói với các Thượng Tế và đám đông: “Ta xét thấy người này không có tội gì cả” (Lc 23,4). Những người tố cáo lại tiếp tục khăng khăng: “Hắn đã xúi giục dân nổi loạn” (Lc 23,5). Ông Philatô cũng không quan tâm đến những lời tố cáo này. Theo tác giả Mátthêu, lý do là ông biết rằng “chỉ vì ganh tỵ mà họ đã nộp Người cho ông” (Mt 27,18). Lần thứ hai, ông Philatô giải thích dài hơn: “Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các người mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo” (Lc 23,14). Lần này, tổng trấn thêm bằng chứng của vua Hêrôđê: “Cả vua Hêrôđê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải người này lại cho chúng ta. Các ngươi thấy đó. Ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. Vậy, ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra” (Lc 23,15). Chi tiết Đức Giêsu ra trước tòa vua Hêrôđê là chi tiết riêng của tác giả Luca (Lc 23,8-12). Trước đó, Luca cũng là tác giả duy nhất cho biết là vua Hêrôđê tìm cách gặp Đức Giêsu (Lc 9,9). Trước mặt vua Hêrôđê, các Thượng Tế và Kinh Sư cũng tố cáo Người dữ dội. Tuy nhiên, vua Hêrôđê chỉ tỏ ra khinh bỉ và chế giễu Đức Giêsu chứ không kết án gì. Tác giả Mátthêu không có câu chuyện về vua Hêrôđê xử án, nhưng ông lại thêm một chứng cứ quan trọng khác: Vợ của ông Philatô cũng chứng minh Đức Giêsu là người công chính và bà muốn chồng mình đừng làm hại Người (Mt 27,19). Với những chứng cứ vô tội ấy, ông Philatô muốn tận dụng luật ân xá vào dịp lễ lớn để phóng thích Đức Giêsu nhưng tất cả mọi người đều la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi” (Lc 23,17-18). Người thuật chuyện ghi chú thêm rằng: “Ông Philatô muốn thả Đức Giêsu nên lại lên tiếng một lần nữa, nhưng họ cứ một mực la lớn: “Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá” (Lc 23,20). Đây có thể được xem là lần thứ ba ông cố gắng cứu Đức Giêsu. Lần thứ bốn, ông Philatô lại cố gắng giải thích: “Nhưng ông ấy đã làm gì nên tội? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết cả. Vậy, ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra” (Lc 23,22). Tuy nhiên, họ càng la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người và tiếng la càng thêm dữ dội. Cuối cùng, ông Philatô phải chiều theo ý họ: Phóng thích người gây bạo động và giết Người; trao nộp Đức Giêsu để chịu đóng đinh theo ý họ (Lc 23,24-25).

THI HÀNH ÁN CỦA TỬ TỘI CÔNG CHÍNH.

ĐIỆU ĐỨC GIÊSU ĐI LÊN NÚI NÚI SỌ VÀ ĐÓNG ĐINH.

Sự trợ giúp của Simôn Kyrênê (Lc 23,26). Trong cả bốn tác giả sách Tin Mừng, chỉ có tác giả Gioan nói rõ ràng là “chính Người vác thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri gọi là Golgotha” (Ga 19,17). Như vậy, theo tác giả Gioan, không có chuyện ông Simôn Kyrênê vác thập giá cho Đức Giêsu. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm không nói cụ thể Đức Giêsu vác thập giá. Tác giả Máccô nói rằng: “Chúng dẫn Người đi để đóng đinh Người” (Mc 15,20). Tác giả Mátthêu cũng diễn tả tương tự: “Họ dẫn Người đi đóng đinh” (Mt 27,31). Tác giả Luca còn nói đơn giản hơn: “Đang khi họ dẫn Người đi, họ bắt một người từ miền quê (hoặc từ ngoài đồng)” (Lc 23,26). Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều cho thấy ông Simôn Kyrênê bị bắt vác thập giá. Tác giả Máccô và Mátthêu cụ thể là “thập giá của Người” (Mc 15,21; Mt 27,32), còn tác giả Luca không có đại từ sở hữu “của Người” mà chỉ có mạo từ xác định trước từ thập giá (τὸν σταυρὸν). Xem ra, theo truyền thống Nhất Lãm, Đức Giêsu dường như không thể vác thập giá. Trái lại với hình ảnh các môn đệ bỏ rơi Thầy của mình, kẻ thì chối, người thì nộp, là hình ảnh một người xa lạ qua đường vác thập giá của Đức Giêsu. Ông Simôn Kyrênê bị kéo vào hành trình thập giá khi đang hành trình trong công việc đồng áng thường ngày (hoặc từ miền quê lên). Ông bị kéo lại và bị đặt thập giá lên vai để đi theo sau Đức Giêsu. Hình ảnh này làm cho người ta nhớ đến lời dạy của Đức Giêsu hai lần trong Luca: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác lấy thập giá của mình mỗi ngày, mà theo” (Lc 9,23; 14,27). Ông Simôn đã bỏ nhịp sống đời thường, để vác lấy thập giá, theo sau Đức Giêsu. Cách nào đó, người ta thấy hình bóng của một người môn đệ “bất đắc dĩ”. Lẽ ra, trong giây phút ấy một trong các môn đệ Đức Giêsu phải là người vác lấy thập giá của Người, nhưng vì họ đã bỏ trốn hết nên chỉ còn một môn đệ theo nghĩa biểu tượng.[4]

Sự đồng hành của dân thành Jêrusalem (Lc 23,26-32). Khác với hai tác giả Tin Mừng Nhất Lãm còn lại (chỉ có một vài người phụ nữ theo Đức Giêsu từ Galilê), tác giả Luca ghi lại sự đồng hành đông đảo của dân chúng. Trong đó, có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc. Đức Giêsu đã an ủi họ: “Hỡi chị em thành Jêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu”. Đức Giêsu an ủi dân thành Jêrusalem lần này là tiếp nối hai lần trước đó Người đã khóc thương thành Jêrusalem. Lần thứ nhất, Đức Giêsu than trách thành Jêrusalem vì họ đã giết các ngôn sứ và ném đá những người được sai đến cùng dân thành. Người thêm rằng “đã bao lần Người muốn tập họp con cái của thành như gà Đức Maria tập họp gà con dưới cánh nhưng họ đã không chịu” (Lc 13,34-35). Lần thứ hai, Đức Giêsu khóc thành Jêrusalem rằng: “Phải chi ngày hôm nay, ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi, nhưng hiện giờ mắt ngươi còn bị che khuất, không nhìn thấy được” (Lc 19,41-42). Hậu quả của ba lần thương khóc thành Jêrusalem là nối kết giữa sự đóng đinh Đức Giêsu và cuộc tấn công tàn phá thành Jêrusalem của quân đội Rôma vào năm Bảy Mươi, khoảng bốn mươi năm sau vụ án của Đức Giêsu.[5]

Ơn cứu độ của Đấng Chịu Đóng Đinh và Chịu Chết (Lc 23,33-34). Một trong những nét đẹp của Đức Giêsu trong Tin Mừng Luca là “sự thương xót tha thứ”. Nếu như Người đã từng dạy các môn đệ là “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét anh em… hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,27.36), thì trong “giây phút thập tử nhất sinh”, giây phút đau đớn, khốn cùng nhất, Người đã điềm tĩnh xin tha thứ cho những người ghét mình: “Lạy Cha! Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).[6] Đây là chi tiết riêng của Tin Mừng Luca. Hơn nữa, nét đẹp ấy lại được tiếp diễn, khi Người trao ban tức khắc Nước Thiên Đàng cho người tử tội cùng chịu đóng đinh với Người: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Chính người tử tù này đã chứng nhận rằng Đức Giêsu “không làm gì sai cả” (Lc 23,41). Đây cũng là câu chuyện độc quyền của tác giả Luca. Câu chuyện này là một thực tiễn của dụ ngôn “ba trong một”: “Con chiên lạc”; “Đồng bạc bị mất”; “Người cha nhân hậu có hai người con lạc”, với câu kết đặc biệt “chúng ta phải ăn mừng vì con ta đã chết, nay lại sống, đã mất nay lại tìm thấy” (Lc 15,1-32).

Sự chế nhạo và thách thức của các thủ lãnh (Lc 23,35-38)

Trái ngược lại với hình ảnh đông đảo dân chúng đồng hành, khóc thương là hình ảnh những người thủ lãnh, những người lính hả hê, chế giễu, thách thức. Họ thách thức Người dựa trên ba danh hiệu: “Kitô của Thiên Chúa”, “Đấng được tuyển chọn” và “vua dân Do Thái”.  Chế giễu, thách thức với danh xưng “Kitô”, “Đấng được tuyển chọn” “Hắn đã cứu người khác thì cứu mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được tuyển chọn”. “Đấng Kitô của Thiên Chúa” là lời tuyên xưng của ông Phêrô như đã nói trên. “Người được tuyển chọn” là danh xưng đến từ tiếng từ đám mây trong trình thuật biến hình: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Trong bối cảnh biến hình, Đức Giêsu đã thảo luận với hai nhân vật Cựu Ước (ông Môsê và ông Êlia) về “cuộc xuất hành” Người sẽ hoàn tất tại Jêrusalem (Lc 9,30-31). Như vậy, “Người được tuyển chọn” trong ý nghĩa là Người sẽ vâng phục cho đến nỗi chịu chết và chết trên thập giá để cứu chuộc muôn người.  Đó cũng là sứ mạng của Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Những vị thủ lãnh đã nhắc đúng danh hiệu “người được tuyển chọn” và ý nghĩa “cứu độ” ứng với danh hiệu này, nhưng điều họ thách thức Người là ngược lại với ý nghĩa đích thực của danh xưng này. Họ muốn Đức Giêsu xuống khỏi thập giá. “Xuống khỏi thập giá” là cám dỗ bỏ cuộc, ngược lại với kế hoạch cứu độ của Người. Lời từ đám mây mời gọi, họ phải nghe Người chứ không phải Người phải nghe họ. Người sẽ cứu độ một người “gian phi” ngay sau đó, nhờ cái chết trên thập giá của Người. Những người lính chế giễu Đức Giêsu với danh hiệu “vua dân Do Thái”: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì hãy cứu lấy mình đi”. Tuy nhiên, như đã nói trên, Đức Giêsu đã nói rằng “nước của Tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho những người Do Thái, nhưng thực ra, nước tôi không thuộc nơi này” (Ga 18,36).

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD



[1] M.D. Hamm, “Luke”, The Paulist Biblical Commentary (New York 2018) 1093.

[2] L.T. Johnson, The Gospel of Luke (SP 3; Collegeville 2002) 359.

[3] M.D. Hamm, “Luke”, 1097.

[4] “Luke’s audience is surely meant to see in Simon a symbol of discipleship” (M.D. Hamm, “Luke”, 1097-1098).

[5] M.D. Hamm, “Luke”, 1098.

[6] Đây là lời đầu tiên trong ba lời Đức Giêsu nói trên thập giá được một mình Luca ghi lại. 1. “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34); 2. “Hôm nay, anh sẽ được ở cùng tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43); 3. “Lạy Cha! Con xin phó thác hồn Con trong tay Cha” (Lc 23,46). Ba lời được chỉ một mình tác giả Gioan ghi lại:  1. “Này người phụ nữ, này là con của bà … này là mẹ của con” (Ga 19,26-27); 2. “Tôi khát” (Ga 19,28); 3. “đã hoàn tất” (Ga 19,30). Con một lời nữa, cả tác giả Mátthêu và Máccô ghi lại: “Lạy Thiên Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của Con, sao Người bỏ rơi con” (Mc 15,34; Mt 27,46). Tất cả làm thành bảy lời của Đức Giêsu trên thập giá (x. M.D. Hamm, “Luke”, 1098-1099).