TÓM LƯỢC Thần học của Gioan về cái chết của Đức Giêsu được xây dựng chủ yếu bởi lời
tường thuật về cái chết của Đức Giêsu. Đọc kỹ bốn chi tiết trên thập tự giá:
(1) dòng chữ khắc trên đầu Chúa (19,19-22); (2) chiếc áo dài liền từ trên xuống
dưới, không có đường may (19,23-24); (3) mẹ của Đức Giêsu và Người môn đệ được
yêu mến (19,25-27) và (4) những lời cuối cùng của Đức Giêsu (19,28-30). Những
chi tiết này phát triển các chủ đề kết nối chúng với các đoạn văn trước đó và
cho thấy Gioan diễn giải cái chết của Đức Giêsu với sự quan tâm đến ý nghĩa
giáo hội học của nó. |
1.
GIỚI THIỆU
Chủ đề ‘Thần học
về Tường thuật Khổ nạn của Gioan’, hoà trộn thần học, tường thuật Khổ nạn và
phê bình thuật chuyện – có nhiều chuyện để bàn hơn là những gì có thể được
trình bày trong một bài viết duy nhất. Tôi hy vọng sẽ chỉ ra rằng tường thuật
Khổ nạn thực sự là cốt lõi của Tin Mừng Gioan, và bất kỳ diễn giải cẩn thận nào
về tường thuật Khổ nạn đều phải đọc nó như một phần của toàn bộ tường thuật Tin
Mừng, và đọc nó với sự chú ý đặc biệt đến thần học của nó. Có lẽ trước tiên
chúng ta nên tự nhắc nhở mình về sự khác biệt giữa tường thuật của Gioan về cái
chết của Đức Giêsu so với các sách Tin Mừng Nhất lãm. Các yếu tố trung tâm của
các tường thuật Nhất lãm không xuất hiện trong Gioan. Trong trình thuật của
Gioan, không có (1) sự chế giễu Đức Giêsu trên thập tự giá; (2) không có tên trộm
ăn năn; (3) không có bóng tối, mặc dù Gioan thường chơi chữ với biểu tượng của
ánh sáng và bóng tối; (4) không đếm giờ (ngoại trừ ghi chú trong 19,14 rằng đó
là giờ thứ sáu), mặc dù Gioan đã nói nhiều lần về sự xuất hiện của giờ Đức
Giêsu; (5) không có sự xé màn che, mặc dù Gioan kể về việc thanh tẩy Đền thờ
vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu; (6) không có tiếng kêu than; (7) không có động đất;
(8) không có sự mở ra của các ngôi mộ, mặc dù Gioan đã nói trước đó về việc mở
các ngôi mộ và ghi lại sự sống lại của Lazarus; và (9) không có lời thú nhận của
viên đại đội trưởng, mặc dù Gioan đặc biệt nhấn mạnh trong suốt Tin Mừng về việc
công nhận Đức Giêsu là ‘Con Thiên Chúa.
Mặc dù thiếu rất
nhiều đặc điểm của các tường thuật của các sách Tin Mừng Nhất lãm, Gioan kết hợp
các yếu tố truyền thống xuất hiện trong các sách Tin Mừng khác với các diễn biến
đặc trưng của Gioan theo một cách hấp dẫn và cực kỳ quan trọng. Khác một chút so
các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu của Gioan vác thập tự giá của chính mình
đến một nơi được gọi là “Đồi sọ” (Nơi Đầu lâu) (19,17), không có chuyện ông
Simon Kyrênê vác thập giá cho Chúa. Những chi tiết khác của trình thuật Gioan,
thì hầu như tương tự Tin Mừng Nhất Lãm. Họ đóng đinh Đức Giêsu cùng với hai người
khác và đặt lên Người dòng chữ ‘Vua dân Do Thái’. Những người lính chia nhau quần
áo của Người, Maria Mađalêna và những người phụ nữ khác đứng cạnh, những người
lính đưa cho Đức Giêsu giấm hoặc rượu chua, và những lời cuối cùng của Đức
Giêsu được ghi lại. Các nhân chứng xác nhận cái chết của Đức Giêsu, và sau đó
thi thể Giuse Arimathêa đưa xuống và chôn cất. Rõ ràng đây chỉ là một phần chọn
lọc các yếu tố từ các tường thuật về cuộc khổ nạn của Tin Mừng Nhất lãm, và mỗi
tường thuật khác đều đưa ra cách miêu tả riêng biệt về cái chết của Đức Giêsu,
nhưng số lượng lớn các điểm tương đồng giữa Gioan và các Tin Mừng khác tại thời
điểm này - đặc biệt là khi Gioan không theo truyền thống Nhất lãm ở những nơi
khác - cho thấy Gioan biết và tuân theo một truyền thống được xác định rõ ràng
về cái chết của Đức Giêsu.
Xét đến những điểm
khác biệt so với các sách Nhất lãm mà chúng ta đã lưu ý, rõ ràng là Gioan chỉ
chọn một số yếu tố chính của truyền thống và phát triển chúng theo cách riêng của
mình để nhấn mạnh các khía cạnh quan trọng về ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu.
Vì vậy, chúng ta hãy xem Gioan đã phát triển tường thuật của mình về cái chết của
Đức Giêsu như thế nào bằng cách sử dụng các yếu tố được chọn lọc này từ truyền
thống và liên kết chúng với các chủ đề quan trọng trong Tin Mừng của ông.
Tường thuật của Gioan
về cái chết của Đức Giêsu tự nhiên được chia thành bảy phần, và việc chôn cất
là phần kết luận: (i) Phần giới thiệu, sự đóng
đinh (cc. 16b-18); (2) dòng chữ khắc trên đầu Chúa (cc. 19-22); (3) chiếc áo
dài không đường may (cc. 23-24); (4) cảnh Mẹ của Đức Giêsu và Người Môn đệ Yêu
Dấu (cc. 25-27); (5) Những lời cuối cùng của Đức Giêsu (cc. 28-30); (6) cảnh người
lính đâm thủng hông Đức Giêsu (cc. 31-37); và (7) cảnh chôn cất (cc. 38-42). Đối
với mục đích hiện tại của chúng ta, tôi sẽ tập trung vào bốn cảnh dẫn đến cái
chết của Đức Giêsu (cc. 19-30).
2.
BẢN CHỮ VIẾT TRÊN ĐẦU
CHÚA (cc. 19-22)
Tất cả các sách Tin
Mừng đều ghi lại bản chữ khắc phí trên đầu Đức Giêsu, nhưng chỉ có Gioan chuyển
cảnh này lên vị trí đầu tiên để nó theo ngay sau trình thuật chi tiết còn lại về
cảnh trên thập giá. Cách diễn đạt của Gioan về bản chữ khắc cũng rất đặc biệt,
chỉ có Gioan ghi lại rằng bản chữ khắc được viết bằng ba ngôn ngữ và chỉ có Gioan
có phần tiếp theo của cuộc tranh luận của Philatô với các nhà chức trách Do
Thái, lên đến đỉnh điểm trong tuyên bố của tổng trấn Philatô, ‘Những gì tôi đã
viết, tôi đã viết.’ Gioan cũng mở rộng rất nhiều cảnh này, những gì không quá
17 từ trong bất kỳ sách Tin Mừng nào khác thì được đưa ra 75 từ trong Gioan. Rõ
ràng, Gioan đặc biệt sử dụng yếu tố truyền thống này cho mục đích thần học của
riêng mình. Việc khám phá cách bản chữ khắc phát triển các chủ đề quan trọng
trong câu chuyện của Gioan sẽ giúp giải thích chức năng của nó ở đây.
Mỗi sách Tin Mừng
có cách diễn đạt bản chữ khắc hơi khác nhau, mặc dù mỗi sách đều có tiêu đề, ‘Vua
của người Do Thái’. Lời lẽ của Gioan là lời lẽ trang trọng nhất và do đó đã trở
thành cơ sở cho cách viết tắt truyền thống của dạng chữ Latin của dòng chữ khắc
trong nghệ thuật Kitô giáo, INRI (Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum). Lời tuyên bố
này có ý nghĩa đặc biệt trong Gioan mà không có trong bất kỳ Tin Mừng nào khác
vì cách nó phát triển các chi tiết từ các phần trước của Tin Mừng, thập tự giá
như sự tôn vinh, vương quyền của Đức Giêsu, Đức Giêsu là vua của ‘người Do Thái’,
mối quan hệ của Đức Giêsu với ‘thế giới’ và ý nghĩa của dòng chữ khắc như lời
cuối cùng của Philatô về Đức Giêsu. Chúng ta có thể xem xét ngắn gọn từng điều
này.
2.1
Thập tự giá như sự tôn vinh
Ba câu nói về sự nâng
lên trong Gioan (3,14; 8,28; 12,32) chuẩn bị cho chúng ta hiểu cái chết của Đức
Giêsu như một sự tôn vinh, một sự nâng lên. Người ta thường lưu ý rằng Gioan
không coi việc đóng đinh Đức Giêsu là một sự sỉ nhục tiếp theo là sự tôn vinh
mà chính là bước đầu tiên trong sự tôn vinh và vinh quang của Đức Giêsu. Sự phục
sinh được nén lại trong sự đóng đinh để cả hai là các giai đoạn trong một chuyển
động hướng lên. Bản thân cái chết là một phần không thể thiếu trong sự tôn vinh
và vinh quang của Đức Giêsu - tất nhiên là được hoàn thành trong sự phục sinh.
Trong Gioan 12,34, đám đông hỏi Đức Giêsu làm sao ông có thể nói rằng Con người
cần phải được nâng lên. Trên thực tế, những gì Đức Giêsu đã nói (trong Ga 12,23)
là giờ đã đến để Con người được tôn vinh (Ashton 1991,495). Ý tưởng ở đây là
phiên bản của Gioan về đỉnh điểm của bài thánh ca về về sự tự huỷ của Đấng Kitô
trong thư Philípphê 2,5-11, kết thúc bằng lời khẳng định rằng ‘mọi miệng lưỡi sẽ
tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa để tôn vinh Đức Chúa Cha.’ Đức Giêsu sẽ
được tôn vinh là Con người bằng cách thu hút mọi người đến với chính mình qua
cái chết của Ngài, và trong Đức Giêsu này, Con tôn vinh Chúa Cha. Cái chết của Đức
Giêsu, khi đó - không chỉ là sự ca ngợi và tôn vinh dành cho Thiên Chúa - là sự
mặc khải về bản chất của Thiên Chúa. Nó ảnh hưởng đến sự cứu rỗi mà nó tiết lộ
và tuyên bố (Cf. Smith 1995,121, ‘Mô tả về cái chết của Đức Giêsu như sự tôn
vinh và vinh quang là một cách nhấn mạnh tính chất mặc khải của nó’).
2.2
Vương quyền của Đức Giêsu
Mặc dù thuật ngữ ‘vương
quốc của Chúa’ chỉ xuất hiện trong Gioan 3,3 và 5, lời tuyên xưng Đức Giêsu là ‘Vua’
ngày càng trở nên quan trọng trong phần sau của Tin Mừng. Chủ đề được công bố
trong chương đầu tiên khi NathanaEL, một người IsraEL đích thực, tuyên xưng rằng
Đức Giêsu là ‘Vua của IsraEL’ (1,49). Sau khi cho 5.000 người ăn, đám đông nhận
ra rằng Đức Giêsu là ‘vị ngôn sứ sẽ đến thế gian’ và cố gắng tôn Ngài lên làm ‘vua’
theo điều kiện của họ (6,15). Trong Gioan 12, Đức Giêsu được Maria ở Bêthania xức
dầu và cưỡi lừa vào Jêrusalem giữa những cành lá cọ và tiếng reo hò ‘Hosanna!’ Người
thuật chuyện trích dẫn sách Dacaria 9,9 để diễn giải cảnh này, ‘Đừng sợ, hỡi
con gái Sion. Này, vua của ngươi đang đến, ngồi trên lưng lừa con’ (12,15). Tại
phiên tòa, Philatô hỏi Giêsu về vương quyền của Người và giới thiệu Giêsu với
đám đông với lời tuyên bố, ‘Này vua của các ngươi!’ (19,14).
Những tham chiếu
này hòa trộn với những ám chỉ về sự tôn vinh và tôn cao của Đức Giêsu, chuẩn bị
cho người đọc nắm bắt được sự miêu tả về sự đóng đinh của Đức Giêsu như là bước
đầu tiên trong quá trình lên ngôi của Người.
2.3
Đức Giêsu là vua của ‘người Do Thái’
Chữ khắc không chỉ
tuyên bố Đức Giêsu là ‘vua’. Nó tuyên bố rằng Người là ‘Vua của người Do Thái’,
đưa chủ đề về sự phản đối của người Do Thái đối với Đức Giêsu lên đến đỉnh điểm
tại thập tự giá. Lời mở đầu cho chúng ta biết rằng Lời (Logos) đã đến ‘với nhà
mình, và người nhà đã không tiếp nhận Người’ (1,11). Từ chương 5 trở đi, sự phản
đối của “Những người Do Thái” (Ioudaioi) - những người thường xuất hiện như những
nhà chức trách tôn giáo - ngày càng gia tăng. Trong mong muốn giết Đức Giêsu, họ
cố gắng bắt giữ Người, họ cầm đá chống lại Người, và cuối cùng triệu tập Hội Đồng
để âm mưu chống lại Người. Cuộc trò chuyện đầu tiên của Đức Giêsu với Philatô
xoay quanh vấn đề về danh tính của Người là vua của người Do Thái. Philatô hỏi,
‘Ngươi có phải là vua của người Do Thái không?’ (18,33). Đức Giêsu không đưa ra
câu trả lời trực tiếp mà chuyển câu hỏi trở lại Philatô. Philatô đáp trả một
cách chế giễu, “Ta có phải là người Do Thái không?” (18,35), và Đức Giêsu tuyên
bố rằng vương quốc của Người không thuộc về thế gian này (18,36). Khi Philatô
viết rằng Đức Giêsu thực sự là “Vua của người Do Thái”, ông tuyên bố sự minh
oan cho Đức Giêsu. Người Do Thái trong Tin Mừng có thể từ chối quyền tối cao của
Đức Giêsu và tuyên bố rằng họ không có vua nào ngoài Xêda (19,15), nhưng họ
không thể phế truất vua của mình. Trớ trêu thay, ngay cả khi họ buộc Philatô phải
nghe theo lời kêu gọi đóng đinh Đức Giêsu của họ, Philatô vẫn chứng nhận quyền
tối cao của Đức Giêsu đối với họ. Sự phản đối của những người Do Thái đối với Đức Giêsu mạnh đến mức dường
như họ phản bội lại chính mình và dân tộc mình. Họ thà thừa nhận vua ngoại bang
đô hộ là vua của mình, hơn là nhận đức Giêsu.
2.4
Mối quan hệ của Đức Giêsu với “thế gian”
Ý nghĩa của việc
khắc dòng chữ bằng ba ngôn ngữ là gì? Các nhà phiên dịch thường lưu ý rằng ba
ngôn ngữ - tiếng Do Thái, tiếng La-tinh và tiếng Hy Lạp - đại diện cho ba nền
văn hóa gặp nhau ở Juđêa: tiếng Do Thái, ngôn
ngữ của Kinh thánh (sách thánh Hípri); tiếng La-tinh, ngôn ngữ của Đế chế; và
tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ của nền văn hóa Hy Lạp - ngôn ngữ của tôn giáo, nhà nước
và văn hóa. Các nhà phê bình lịch sử đã tự hỏi liệu những người lính thực thi việc
hành quyết, có học thức hoặc có khuynh hướng dành thời gian để viết cáo trạng bằng
ba ngôn ngữ hay không. Ý nghĩa của chi tiết này, chỉ có ở Gioan, thay vào đó nằm
ở mối quan hệ của nó với cách Gioan diễn giải về cái chết của Đức Giêsu.
Trong câu thứ ba
của những câu nói về sự nâng lên (12,32), Đức Giêsu tuyên bố rằng nếu Ngài được
nâng lên, Ngài sẽ kéo mọi người đến với Ngài. Bây giờ, khi Ngài bị đóng đinh,
danh tính Đấng Mêsia thực sự của Ngài được công bố cho tất cả mọi người bằng ba
ngôn ngữ của khu vực. Có thể lưu ý đến sự tương đồng với trải nghiệm Lễ Ngũ Tuần
trong Công vụ - mỗi người được nghe bằng ngôn ngữ của riêng mình. Đức Giêsu là
Vua của người Do Thái, nhưng cái chết của Ngài có ý nghĩa đối với tất cả mọi
người. Đó là phương tiện mà Ngài dùng để kéo mọi người đến với Ngài.
Điều này đặt ra
câu hỏi liệu bằng cái chết của mình, Đức Giêsu có chiến thắng ‘thế gian’ chống
đối Ngài hay không. Trên thực tế, chủ đề ‘Kristus victor’ (Kitô, người chiến thắng)
có trong Gioan, mặc dù nó chỉ được gợi lên gián tiếp ở đây. Câu trước câu nói về
việc được nâng lên trong Ga 12,32 nói rằng, ‘Bây giờ là lúc phán xét của thế
gian này. Bây giờ, kẻ thống trị thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài’ (12,31; cf. 14,30;
16,11). Do đó, sự tôn vinh của Đức Giêsu, tuyên bố về vương quyền của Ngài và
việc viết dòng chữ bằng ba ngôn ngữ chứng minh, rằng qua cái chết của mình, Đức
Giêsu đã đánh bại ‘kẻ thống trị thế gian này’ và thiết lập một chủ quyền mới.
Bây giờ, tất cả mọi người nên thừa nhận Ngài là vua của họ. Hàm ý tự nhiên của
lễ đăng quang của một vị vua mới là quyền thống trị mới tạo ra một cộng đoàn mới,
và chúng ta sẽ thấy điều này được mô tả trong các cảnh sau.
2.5
Dòng chữ khắc là lời cuối cùng của Philatô liên quan đến Đức Giêsu
Tính cách của Philatô cũng được phát triển chi tiết
hơn trong Gioan so với bất kỳ Tin Mừng nào khác. Trong phiên tòa được dàn dựng
khéo léo gồm bảy cảnh, Philatô di chuyển qua lại giữa Giêsu bên trong và các
nhà chức trách Do Thái bên ngoài, những người với sự mỉa mai lớn sẽ không vào sân
trong (Praetorium) vì sợ bị ô uế - ngay cả khi họ yêu cầu giết một người vô tội.
Philatô hỏi Giêsu liệu ông có phải là vua của người Do Thái không, tuyên bố ông
vô tội ba lần, đánh đòn ông, đề nghị thả một tù nhân và chất vấn Giêsu về thẩm
quyền của ông. Philatô có phải là một nhân vật mạnh mẽ kiểm soát toàn bộ quá
trình tố tụng hay là một nhân vật yếu đuối dễ bị tổn thương trước cả Giêsu và
người Do Thái? Tôi nghĩ rằng Philatô là một nhân vật yếu đuối. Những lập luận mô
tả một Philatô mạnh mẽ dựa trên các tài liệu tham khảo của Josephus về Philatô
hoặc khả năng lịch sử nội tại không thể trọng lượng hơn khi giải thích cách Gioan
mô tả đặc điểm Philatô so với các lập luận liên quan đến Giêsu lịch sử hoặc Gioan
lịch sử khi chúng ta giải thích cách Gioan về mô tả đặc tính của Đức Giêsu hoặc
Người môn đệ được yêu dấu. Cách Tác giả Tin Mừng thứ tư mô tả Đức Giêsu và tông
đồ Gioan có thể rất khác so với Đức Giêsu và Gioan lịch sử, và hình ảnh Philatô
dưới ngòi bút thần học của tác giả Tin Mừng thứ tu cũng vậy. Đó là một Philatô
yếu đuối. Điểm yếu của Philatô thể hiện rõ ở chỗ người Do Thái buộc Philatô phải
ra trước mặt họ, và mặc dù ông tuyên bố Đức Giêsu vô tội ba lần, nhưng cuối
cùng Philatô vẫn giao nộp Người.
Giống như trong
các cuộc đối thoại khác trong Tin Mừng, mối quan tâm duy nhất của Đức Giêsu là
câu trả lời của Philatô với Người, ‘Ngươi tự ý nói điều này hay vì người khác
đã nói với ngươi về Ta?’ (18,34). Philatô trả lời những gì ông nghe được từ người
khác. Các nhà chức trách yêu cầu Đức Giêsu phải chết vì khi tự nhận mình là Con
Thiên Chúa, ông đã phạm tội phạm thượng theo luật của họ. Trong Gioan 19,8, người
thuật chuyện kể rằng khi Philatô nghe từ này, ông càng sợ hãi hơn. Câu này nghĩa
mơ hồ. Philatô càng sợ hãi hơn vì ông nhận ra rằng các nhà chức trách sẽ không
hài lòng với bất cứ điều gì ngoài cái chết của Đức Giêsu, hay ông càng sợ hãi
hơn vì sau khi thẩm vấn Đức Giêsu, ông sợ rằng những lời tuyên bố của Đức Giêsu
có thể là sự thật? Do đó, ông sẽ không chỉ xử tử một người vô tội mà còn là Con
của Thiên Chúa!
Giống như những
người khác trong Tin Mừng, đặc biệt là người phụ nữ Samari và người đàn ông mù,
Philatô dường như từng bước thực hiện ít nhất một lời thú nhận một phần. Trong
19,5, Philatô nói với đám đông, ‘Này, là người.’ Sau khi Philatô nghe trong câu
8 rằng Đức Giêsu tự nhận mình là Con Thiên Chúa, ông hỏi Đức Giêsu câu hỏi quan
trọng của Gioan về nguồn gốc của Người: ‘Ngươi
từ đâu đến?’ (c. 9). Tuyên bố cuối cùng của Philatô, không thể không pha chút mỉa
mai, là ‘Này, là vua các ngươi!’ (c. 14). Ít nhất, Gioan đã
buộc Philatô phải đưa ra lời thú nhận thực sự. Mặt khác, chúng ta cũng có thể dễ
dàng suy ra rằng, sau khi tuyên bố Đức Giêsu vô tội, Philatô nghi ngờ rằng những
tuyên bố của Đức Giêsu là đúng và đưa ra phán quyết thực sự của mình trong sắc
lệnh được viết ra, ‘Giêsu, người Nadarét, Vua dân Do Thái.’
Bản báo cáo của Gioan
về dòng chữ khắc trên thập tự giá chứng tỏ có nhiều ẩn ý diễn giải cái chết của
Đức Giêsu trong bối cảnh của Gioan. Bản chữ khắc tuyên bố Đức Giêsu được đăng
quang làm vua, danh tính đấng cứu thế của Người là vua của người Do Thái, Người
đã đánh bại ‘kẻ thống trị thế giới này’ và thực hiện lời hứa thu hút mọi người
về với Người. Gioan đã lấy một yếu tố từ truyền thống và lấp đầy nó bằng một ý
nghĩa mới.
3.
CHIẾC ÁO KHÔNG ĐƯỜNG CHỈ (cc. 23-24)
Việc rút thăm là
một yếu tố truyền thống khác của cảnh đóng đinh được ghi lại trong cả ba sách Tin
Mừng nhất lãm (Mc 15,24). Gioan đặt cảnh này sau phần tường thuật về bản chữ khắc.
Trong khi các sách Tin Mừng nhất lãm mô tả cảnh này trong sáu đến mười hai từ, Gioan
mở rộng cảnh phân chi áo thành 67 từ.
3.1
Trích dẫn
Trong cảnh mở rộng
này, Gioan tường thuật rằng những người lính đã chia trang phục của Đức Giêsu
thành bốn phần, mỗi người lính một phần. Vì bộ áo choàng của Đức Giêsu không có
đường may nên những người lính đã rút thăm để lấy chiếc áo dài thay vì lấy tất
cả các trang phục của Người. Câu chuyện của Gioan về những bộ quần áo do đó ứng
nghiệm chính xác hơn Tv 22,19, mà Gioan trích dẫn bản Bảy Mươi (Tv 21,19) theo
công thức ứng nghiệm. Việc tách chiếc áo dài ra khỏi phần còn lại của quần áo của
Đức Giêsu, và lưu ý rằng nó không có đường may và rằng những người lính không
muốn xé nó thành từng mảnh, mời gọi người phiên dịch đào sâu hơn vào ý nghĩa của
chiếc áo dài không có đường may trong bối cảnh của Gioan.
3.2
Áo dài không có đường may, được dệt ‘từ trên xuống’
Một trong những
manh mối đầu tiên mà người đọc được cung cấp là áo dài được dệt từ trên xuống (ἐκ τῶν ἄνωθεν, c.23). Từ ἄνωθεν xuất hiện trong ba bối cảnh khác trong Gioan. Nicôđêmô
được cho biết rằng ông phải được sinh ra ἄνωθεν, mà ông đã nhầm lẫn
khi cho rằng đó là sự ám chỉ đến một sự sinh ra về mặt thể xác khác, trong khi Đức
Giêsu đang thách thức ông phải sinh ra một lần nữa từ trên cao, sự sinh ra của Thần
Khí (3,3.7). Ngay sau đó, Đức Giêsu hoặc người thuật chuyện của Gioan khẳng định
rằng ‘đấng đã đến từ trên cao thì ở trên hết mọi người’ (3,31), và nhắc lại lời
khẳng định đó ở cuối câu thơ rằng, ‘đấng đã đến từ thiên đàng thì ở trên hết mọi
người’. Trong cuộc trò chuyện của Giêsu với Philatô, ông đã bác bỏ lời cảnh báo
của vị tổng trấn rằng bằng cách trả lời rằng Philatô không có thẩm quyền nào
ngoại trừ thẩm quyền được ban cho ông ‘từ trên cao’ (19,11). Các nhà bình luận
đã lưu ý đến sự chơi chữ ở đây, Quyền hạn của Philatô được hoàng đế La Mã trao
cho ông, nhưng theo nghĩa xa hơn, ông chỉ có thể đưa Giêsu đến cái chết vì được
Chúa trao cho quyền đó. Sự đảo ngược ở đây là Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30),
và Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình trong Gioan (10,18). Philatô không
thể kết án Đức Giêsu phải chết nếu Ngài không vâng lời Chúa Cha và đã quyết tâm
hy sinh mạng sống của mình vì ‘những người của mình’.
Bây giờ, tại thập
tự giá, những từ quan trọng này, là ἐκ τῶν ἄνωθεν, lại xuất hiện trong mô tả của người thuật
chuyện về chiếc áo dài liền mạch. Nó được tạo ra theo cách này, được dệt từ
trên xuống toàn bộ chiếc áo. Gioan thường sử dụng các tham chiếu đến các chi tiết
thể lý theo những cách kịch tính. Người phụ nữ Samari để lại chiếc bình của
mình bên giếng (4,28), những chiếc bánh dùng để nuôi đám đông được làm từ lúa mạch
(6,9), khi Giuđa ra ngoài thì trời đã tối (13,30), khi các môn đệ nhìn vào ngôi
mộ trống, họ thấy những tấm vải liệm nằm ở đó (20,6-7), và sau đó chúng ta sẽ
được kể rằng ngay cả sau khi đánh bắt được nhiều cá, lưới vẫn không bị rách (21,11),
và ngọn lửa trên bờ là ngọn lửa than, giống như ngọn lửa trong sân khi Phêrô chối
Đức Giêsu (18,18; 21,9). Thiết kế liền mạch của chiếc áo dài mà Đức Giêsu để lại
là ‘từ trên cao’ xuống. Do đó, có thể không quá lời khi nói rằng những gì đang
xảy ra tại thập tự giá đều là một phần của bức tranh thêu về thiết kế mang tính
cứu chuộc của Chúa.
3.3 Chiếc áo dài không rách
Việc chiếc áo dài
là một mảnh liền, và những người lính quyết định không xé nó (μὴ σχίσωμεν), cho thấy chiếc áo dài liền mạch có liên quan đến
việc Gioan nhấn mạnh nhiều lần về sự hiệp nhất của Giáo Hội. Đức Giêsu tuyên bố
rằng sẽ có một đàn chiên, một người chăn (10,16), và khi được nâng lên, Ngài sẽ
tập hợp mọi người lại với Ngài (12,32). Người thuật chuyện của Gioan tiếp tục
chủ đề trong 11,52, bình luận rằng Đức Giêsu sắp chết để Ngài có thể tập hợp
thành một những đứa con của Chúa đã bị phân tán. Đức Giêsu và Chúa Cha là một
(10,30), và Đức Giêsu đã cầu nguyện rằng các môn đệ của Ngài có thể là một, giống
như Ngài và Chúa Cha là một (17,11.21.22.23). Như chúng ta đã lưu ý, lưới chứa
mẻ cá lớn, có thể tượng trưng cho sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội, cũng không
rách (οὐκ ἐσχίσθη, 21,11).
Theo nghĩa bóng,
qua mô tả về chiếc áo dài liền mạch, Gioan gắn kết cái chết của Đức Giêsu với
chủ đề về sự hiệp nhất. Khi ông thu hút mọi người đến với mình, ông thu hút họ
vào một thân thể, một cộng đoàn. Do đó, sự hiệp nhất của Giáo Hội được đặt nền
tảng trên thiết kế của Chúa. Những gì Chúa dệt, Chúa dệt toàn bộ, từ trên cao.
Sự hiệp nhất của Giáo Hội dựa trên nguồn gốc chung của nó, tại thập tự giá. Tuy
nhiên, cuối cùng, Gioan nhấn mạnh rằng sự hiệp nhất của các tín hữu bắt nguồn từ
sự hiệp nhất của Đức Giêsu với Chúa Cha, vì vậy, giống như Đức Giêsu là một với
Chúa Cha, ‘những người của Ngài’ sẽ tìm thấy sự hiệp nhất của họ thông qua sự
hiệp nhất của họ với Ngài. Chỉ có một cây nho, một lưới, một đàn chiên, một người
chăn, một Người Con, một chiếc áo dài liền mạch được dệt từ trên xuống.
Một lần nữa, Gioan
đã lấy một yếu tố truyền thống của cảnh đóng đinh và phát triển nó theo cách
riêng của mình để trong bối cảnh lớn hơn của Tin Mừng, nó mang thêm ý nghĩa và
phục vụ cho việc diễn giải thêm ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu trên thập tự
giá.
4.
MẸ CỦA ĐỨC GIÊSU VÀ NGƯỜI MÔN ĐỆ NGƯỜI YÊU (cc. 25-27)
Mỗi sách Tin Mừng
khác đều nêu tên những người phụ nữ đứng cạnh khi Đức Giêsu bị treo trên thập tự
giá. Trong các sách Tin Mừng khác, sự hiện diện của những người phụ nữ như những
chứng nhân cái chết của Đức Giêsu được nói đến sau khi cái chết của Người được tường
thuật. Gioan đưa bối cảnh về phía trước và là sách Tin Mừng duy nhất ghi lại cuộc
trao đổi giữa Đức Giêsu với mẹ Người và Người Môn đệ Yêu Dấu. Tất nhiên, Gioan
cũng là sách Tin Mừng duy nhất ghi lại sự hiện diện của một môn đệ duy nhất tại
thập tự giá, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm các môn đệ bỏ trốn hết. Trong số
những người phụ nữ tại thập tự giá, Mátthêu và Máccô nêu tên ‘Maria, mẹ của Giacôbê
và Giuse,’ nhưng Gioan là người duy nhất ghi lại sự hiện diện của thân mẫu của Đức
Giêsu. Gioan dường như liệt kê bốn người phụ nữ tại thập tự giá, mẹ của Đức
Giêsu, chị gái của bà, Maria, vợ của Clopas và Maria Mađalêna.
4.1
Một cảnh mang tính biểu tượng
Đức Giêsu nhìn thấy
mẹ mình và Người Môn Đệ Yêu Dấu, và nói với mẹ mình, ‘Này người phụ nữ, đây là
con bà,’ và nói với Người Môn Đệ Yêu Dấu, ‘Đây là mẹ của con,’ và người thuật
chuyện kể rằng ‘từ giờ đó’, người môn đệ đã đưa bà về nhà mình. Qua nhiều thế kỷ,
các nhà giải thích đã nghi ngờ rằng cảnh này có ý nghĩa biểu tượng. Có một chi
tiết khiến chúng ta để là cả mẹ của Đức Giêsu và Người Môn Đệ Yêu Dấu đều không
được nêu tên. Người ta cho rằng người mẹ và Người Môn Đệ Yêu Dấu đại diện cho một
Ađam và Eva mới, IsraEL và Giáo hội, hoặc Kitô giáo Do Thái và Kitô giáo dân
ngoại. Tôi tin rằng ý nghĩa biểu tượng của cảnh này không phải được tìm kiếm
trong các ý nghĩa biểu tượng không hợp thời hoặc không liên quan đến Tin Mừng,
mà là trong hình ảnh biểu tượng gắn liền với các chủ đề được phát triển trong
chính Tin Mừng. Như thường thấy, mẹ của Đức Giêsu chỉ xuất hiện một lần ở nơi
khác trong Tin Mừng, tại tiệc cưới ở Cana. Cảnh này theo một số khía cạnh là cảnh
tương ứng của Gioan với cảnh trong Tin Mừng Nhất lãm mà Đức Giêsu hỏi ai là mẹ
và anh em của Ngài (Mc 3,32-35; Lc 8,19-21). Câu trả lời gay gắt của Đức Giêsu
với mẹ không phải là để che đậy trong nỗ lực sai lầm nhằm cứu vãn sự lịch sự của
Đức Giêsu. Bằng câu trả lời của mình, Ngài đã tách mình khỏi mẹ mình. Từ nay trở
đi, các mối quan hệ huyết thống sẽ là thứ yếu so với những mối quan hệ được
sinh ra bởi tinh thần và được duy trì bởi đức tin. Ngài nói với Nicôđêmô trong
chương tiếp theo rằng Ngài phải được sinh ra từ trên cao, bởi nước và Thần Khí.
Những gì là xác thịt là xác thịt, và những gì là Thần Khí là Thần Khí (3,3-8).
Những người anh em huyết thống của Đức Giêsu chỉ xuất hiện một lần trong Tin Mừng,
ở đầu chương bảy, và ở đó người thuật chuyện kể rằng anh em của Ngài không tin
vào Ngài (7,5). Tệ hơn nữa, thế gian không thể ghét họ, như thế gian ghét Ngài
(7,7). Các mối quan hệ huyết thống của Đức Giêsu hoàn toàn vượt qua khi Ngài
hoàn thành công việc mà Chúa Cha đã giao cho Ngài làm.
4.2 Người Môn đệ Được Yêu
Người Môn đệ Được
Yêu được giới thiệu trong Gioan 13,23 với một đặc điểm đơn giản nhưng rõ ràng
có ý nghĩa. Ông là môn đệ mà Đức Giêsu yêu thương, và ông dựa vào ngực Đức
Giêsu (ἐν τῷ κόλπῳ τοῦ Ἰησου) - cũng giống như Đức
Giêsu, người con duy nhất của Chúa Cha được giới thiệu ở phần cuối của lời mở đầu
là ‘ở trong lòng Chúa Cha’ (1,18). Môn đệ được yêu thương xuất hiện ở tất cả
các khoảnh khắc quan trọng của các sự kiện trung tâm của Tin Mừng, Ông ở trên
ngực Đức Giêsu trong bữa ăn cuối cùng của Người, ông đưa Phêrô vào sân trong
khi Đức Giêsu bị xét xử, ông đứng cạnh mẹ Đức Giêsu dưới chân thập giá, ông chạy
cùng Phêrô đến ngôi mộ trống và là người đầu tiên, cũng là người duy nhất tin
vào sự phục sinh ngay khi ông nhìn thấy những tấm vải liệm nằm ở đó, và ông là
người đầu tiên nhận ra Chúa phục sinh tại Biển Galilê. Trong những câu kết thúc
của Tin Mừng, Chúa phục sinh nói rằng Môn đệ được yêu sẽ làm chứng thực sự, và
biên tập viên cuối cùng nói rằng Môn đệ được yêu thương là người đã viết những
điều này và ‘chúng ta’ (cộng đoàn Gioan) biết rằng lời chứng của ông là có thật.
Môn đệ được yêu đóng vai trò là người đại diện cho cộng đoàn Gioan; ông là người
sáng lập và là người có thẩm quyền tông đồ của cộng đoàn.
4.3 Mẹ của Đức Giêsu
Những liên tưởng
tượng trưng về mẹ của Đức Giêsu trong cảnh này khó xác định hơn. Trong cả hai cảnh
mẹ của Đức Giêsu xuất hiện, Người gọi bà là ‘người phụ nữ’. Trong bài diễn văn
từ biệt, như một phần trong cách diễn giải của Đức Giêsu về sự ra đi của mình, Đức
Giêsu đã nhắc đến hình ảnh người phụ nữ đang chuyển dạ, khi đến giờ của mình,
bà sinh ra một đứa con và không còn nhớ đến cơn đau chuyển dạ nữa (16,21).
Trong Tin Mừng
Luca, mẹ Maria được cho biết rằng một thanh gươm sẽ đâm thấu tim bà (2,35).
Trong Tin Mừng này, mẹ của Đức Giêsu đã nhận được một đứa con trai trên thập tự
giá. Một mối liên hệ xa hơn nhưng không phải là không hợp lý có thể được tạo ra
với hình ảnh người phụ nữ mặc áo mặt trời trong Khải Huyền 12,1-2, người sinh
ra một đứa con trai được đưa lên trời, nhưng con thú vẫn tiếp tục ngược đãi người
phụ nữ và ‘những người còn lại trong dòng dõi bà, những người tuân giữ các điều
răn của Thiên Chúa và có lời chứng của Đức Giêsu’ (Kh 12,17).
4.4 Ngôn ngữ biểu hiện
Bây giờ, tại thập
tự giá, khi giờ của Đức Giêsu đã đến, Đức Giêsu sử dụng một công thức mặc khải “này” và ngôn ngữ biểu tả. Giống như một lời tuyên bố về hôn nhân, lời
tuyên bố của Người thực sự hoàn thành hoặc tác động đến mối quan hệ mới mà nó
tuyên bố. Bằng lời tuyên bố của mình, Đức Giêsu tạo nên một gia đình mới, mẹ và
con trai.
4.5
‘Những đứa con của Chúa’
Ngay từ đầu, Tin
Mừng Gioan đã sử dụng phép ẩn dụ về mối quan hệ họ hàng để mô tả mối quan hệ mới
của người tin với Chúa. Những người đáp lại sự mặc khải trong Đức Giêsu - những
người được Chúa Cha kêu gọi, thu hút và lựa chọn và tin vào danh Đức Giêsu - được
trao quyền để trở thành ‘con cái của Thiên Chúa’ (1,12). Hơn nữa, người thuật
chuyện đã giải thích rằng Đức Giêsu không chỉ chết cho dân, mà còn để tập hợp tất
cả những đứa con bị phân tán của Chúa lại với nhau (11,52).
4.6
Sự hình thành của một gia đình mới
Sự hình thành của
gia đình mới này tại thập tự giá tạo nên hạt nhân cho cộng đoàn những người
tin. Cộng đoàn Gioan coi Người Môn đệ Yêu Dấu là nhân chứng tận mắt, là mối
liên kết của họ với Đức Giêsu. Không thể tránh khỏi, cộng đoàn sẽ đồng nhất với
Người Môn đệ Yêu Dấu trong cảnh này. Địa vị mới của họ bắt đầu từ cây thập tự.
Địa vị mới của những người theo Đức Giêsu một lần nữa được báo hiệu trong những
lần hiện ra sau khi phục sinh. Đức Giêsu bảo Maria Mađalêna đi và nói với ‘các anh
em’ của mình rằng, ‘Ta sẽ lên cùng Cha của Ta và Cha của anh em, cùng Thiên
Chúa của Ta và Thiên Chúa của anh em’ (20,17), và Maria đã đi và nói với các môn
đệ của Người rằng bà đã thấy Chúa và rằng Người đã nói những điều này. Ý nghĩa
rất rõ ràng. Các môn đệ bây giờ đã trở thành anh em của Người. Gia đình mới đã
được thành lập. Một lần nữa, Gioan đã lấy một yếu tố truyền thống của câu chuyện
về cuộc khổ nạn (những người phụ nữ ở cây thập tự) và phát triển nó theo cách
riêng của mình, thêm vào sự hiện diện của Người Môn đệ Yêu Dấu và những lời của
Đức Giêsu với mẹ của mình và Người Môn đệ Yêu Dấu. Hiến pháp của cộng đoàn mới
trong cảnh này là hành động cuối cùng của Đức Giêsu trước khi người thuật chuyện
tường thuật rằng Đức Giêsu biết “mọi sự đã hoàn tất” (19,28). Những gì Đức
Giêsu đã hoàn thành trên thập tự giá được mô tả trong cảnh quan trọng này là hiến
pháp của một cộng đoàn mới, cộng đoàn “những kẻ thuộc về Người”. Do đó, ý nghĩa
cứu chuộc của thập tự giá trong Gioan không chỉ là cá nhân mà còn là tập thể.
Hơn cả một lý thuyết cơ bản về sự chuộc tội, Gioan có một giáo hội học cơ bản về
thập tự giá.
5.
LỜI CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC GIÊSU, “TA KHÁT” VÀ “MỌI VIỆC ĐÃ HOÀN THÀNH” (cc. 28-30)
Mỗi sách Tin Mừng
nhất lãm đều kể về việc mang rượu cho Đức Giêsu. Trong Mátthêu và Máccô, nó
theo sau tiếng kêu của Đức Giêsu về sự bỏ rơi của Cha. Trong Luca, nó là một phần
trong sự chế giễu Đức Giêsu. Trong Gioan, việc ban rượu giấm cũng liên quan đến
lời của Đức Giêsu, nhưng ở đây tự nhiên hơn vì Đức Giêsu nói rằng Người “khát”.
Đặc biệt, Gioan duy trì yếu tố này của truyền thống và sử dụng nó để phục vụ
cho thần học của mình. Trong số các sách Tin Mừng, chỉ có Gioan tuyên bố rõ
ràng rằng việc ban rượu giấm đã ứng nghiệm lời Kinh thánh. Tuy nhiên, trái ngược
với những tuyên bố về sự ứng nghiệm trong câu 24 về việc chia áo trong của Chúa
và các câu 36 (không cái xương nào bị gãy) và 37 (nhìn xem Đấng họ đâm thâu),
đoạn Kinh thánh nói về việc trao rượu giấm không được trích dẫn.
5.1
Sự nhấn mạnh đến sự hoàn tất
Người đọc có thể
nhận thấy sự nhấn mạnh lặp lại về sự hoàn tất trong những câu. Người thuật chuyện
thuật lại rằng Đức Giêsu biết rằng mọi thứ giờ đã hoàn tất. Phân từ εἰδὼς xuất hiện trong hai bối cảnh khác trước đó trong Gioan. Trong 13,1, người
thuật chuyện thuật lại rằng ‘Đức Giêsu biết rằng giờ của Ngài đã đến để rời khỏi
thế gian này đến với Cha,’ và trong khu vườn, người thuật chuyện thuật lại rằng
Đức Giêsu ‘biết mọi điều sẽ xảy đến với mình,’ đã bước tới để nói chuyện với những
kẻ đối phương (18,4).
5.2
Sự hoàn thành sứ mệnh của Đức Giêsu
Ở đây, sau khi
thành lập gia đình mới của ‘chính mình’ và biết rằng mình đã hoàn thành mọi điều
mình phải làm, Đức Giêsu nói rằng Ngài khát. Người thuật chuyện bình luận rằng Đức
Giêsu nói rằng Ngài khát để hoàn thành lời Thánh Kinh. Thuật ngữ được sử dụng ở
đây là bất thường; nó có cùng gốc với gốc trong phần đầu của câu 28 và trong lời
cuối cùng của Đức Giêsu trong câu 30, ‘Mọi việc đã hoàn tất.’ R. Brown (1994.2,1070)
nhận xét rằng ‘Gioan muốn nhấn mạnh một cách mạnh mẽ về cách Đức Giêsu chết chỉ
sau khi Ngài đã chấm dứt những gì Ngài đến để làm.’ Lời mở đầu nêu rằng Đức
Giêsu đến để cho Chúa Cha được mọi người biết (1,18), và Gioan the Người Dìm chỉ
ra Đức Giêsu cho các môn đệ của mình là ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng cất tội lỗi thế
gian’ (1,29.36). Người thuật chuyện kể lại rằng Đức Giêsu đã trao quyền cho những
ai tin vào Ngài để trở thành ‘con cái của Thiên Chúa’ (1,12), và Đức Giêsu nói
rằng Ngài đã đến để chiên của Ngài có sự sống và để chúng có sự sống đó một
cách dồi dào (10,10), và rằng Ngài đến để làm chứng cho sự thật (18,37). Trong
suốt chức vụ của mình, Đức Giêsu chỉ chuyển động ứng với cảm nhận của riêng
mình về thời gian. Không ai lấy đi sự sống của Ngài. Để ứng nghiệm Gioan 10,18,
Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình - nhưng chỉ sau khi Ngài đã hoàn thành
công việc mà Chúa Cha đã giao cho Ngài làm. Do đó, trong Tin Mừng Gioan, cái chết
của Đức Giêsu đánh dấu sự hoàn thành sứ mệnh của Người là làm cho Chúa Cha được
biết đến, xóa bỏ tội lỗi của thế gian, làm chứng cho sự thật và ban sự sống dồi
dào cho ‘những người thuộc về Người’.
5.3 Cơn khát của Đức Giêsu
Người ta thường đồng
ý rằng những bản văn Cựu Ước
có khả năng nhất cho đoạn Kinh thánh được đề cập là Tv 69,21 hoặc 22,15; cả hai
đều được trích dẫn ở những nơi khác trong những câu chuyện về cuộc khổ nạn. Tv 69 đề cập cụ thể đến
cơn khát và những người phản đối cho người công chính uống giấm. Tuy nhiên, vì dữ
liệu tham khảo trong Kinh thánh không được trích dẫn, nên có vẻ như không chắc
chắn rằng ý nghĩa của cơn khát của Đức Giêsu chủ yếu nằm ở sắc thái của văn bản
Cựu Ước (Cf. Brawley 1993,427-43; Culpepper 1996,199-205). Thay vào đó, chúng
ta phải một lần nữa tìm kiếm ý nghĩa của cơn khát của Đức Giêsu trong chính Tin
Mừng.
Mối liên hệ của τελειωθῇ (được hoàn tất) với công việc của Đức Giêsu và với cơn khát gợi nhớ đến những
tham chiếu trước đó về cơn khát (và cơn đói) trong Tin Mừng, đặc biệt là Gioan
4 và Gioan 7,37-39. Kinh thánh đóng vai trò quan trọng trong cả hai đoạn văn.
Người phụ nữ Samari nhớ lại ‘cha chúng ta là Jacob’, người đã đào giếng để thỏa
cơn khát của họ; Gioan 7,38-39 đề cập đến một đoạn văn khó hiểu khác trong kinh
thánh và dự báo về việc ban Thần Khí khi Đức Giêsu được tôn vinh. Bất kể người
ta có đọc Gioan 19,28-29 như một sự lặp lại của Tv 69,21 hay không, bất kỳ độc
giả nào bỏ lỡ mối liên hệ trong Gioan 19,28-29 với các tham chiếu về cơn khát
trước đó trong Tin Mừng sẽ bỏ lỡ nhiều ý nghĩa tượng trưng, ẩn dụ và mỉa mai
trong lời tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu. Trong Gioan, thức ăn
và đồ uống đối với Đức Giêsu là biểu tượng của một thực tại cao hơn. Tương tự
như vậy, khi Phêrô cố gắng ngăn cản việc bắt giữ Đức Giêsu, Đức Giêsu đã trả lời,
‘Ta sẽ không uống chén mà Cha đã trao cho Ta sao?’ (18,11). Bây giờ, khi đã
hoàn thành mọi điều mình phải làm, Đức Giêsu khát. Ngài đã sẵn sàng uống ngụm
cuối cùng từ chiếc chén được trao cho Ngài. Chỉ trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu
mới thực sự uống rượu chua được trao cho Ngài, và khi làm như vậy, Ngài ngụ ý cho
việc uống chén đau khổ khi Ngài chết. Do đó, khi Đức Giêsu nói, ‘Ta khát’, Ngài
không chỉ chỉ ra sự ứng nghiệm của Kinh thánh và sự ứng nghiệm của lời hứa ban
nước sống cho những ai đến với Ngài; Ngài cũng ngụ ý nói về cho sự chết của
chính Ngài.
5.4
Sự ứng nghiệm của Kinh thánh
Trong một số dữ
liệu tham khảo khác về sự ứng nghiệm của Kinh thánh trong sách Gioan, văn bản
tiền thân cũng không được xác định (x. Ga 2,22; 7,42; 17,12; 20,9). Trong mỗi
câu này, như trong Gioan 19,28, có một dữ liệu tham khảo rõ ràng về Kinh thánh
hoặc về sự ứng nghiệm này, các nhà chú giải hiện đại đã gợi ý rằng Tin Mừng có
thể có nhiều hơn một văn bản được xem xét. Về cả hình thức và hiệu ứng, những
tham chiếu này khác biệt đáng kể so với các tham chiếu về sự ứng nghiệm của sách
Thánh trong đó một văn bản cụ thể được trích dẫn. Trong Gioan 19,28-29, nhiều yếu
tố khác nhau của Sách Thánh được ứng nghiệm, người công chính khát, rượu chua
được ban cho, cây kinh giới được sử dụng và Đức Giêsu từ bỏ Thần Khí.
5.5 Cây hương bài
Tất nhiên, việc
nhắc đến cây hương bài báo hiệu
sự ứng nghiệm của chủ đề Xuất hành trong Tin Mừng Gioan. Người thuật chuyện nói
với người đọc ngay từ đầu rằng trong khi luật pháp đến qua Môsê, thì ‘ân sủng
và chân lý đã đến qua Giêsu’ (1,17). Đức Giêsu đã được công bố với các môn đệ
là ‘người mà Môsê và các tiên tri đã viết’ (1,45). Việc ‘nâng lên’ của Đức Giêsu
sẽ giống như việc Môsê nâng con rắn bằng đồng lên trong sa mạc (3,14). Môsê
không lên án Đức Giêsu, nhưng làm chứng về Người (5,45-46). Giống như Môsê, Đức
Giêsu nuôi dưỡng đám đông trong sa mạc và băng qua biển, chứng minh rằng chính Người
là bánh sự sống đích thực, đã từ trên cao xuống. Chủ đề về việc Đức Giêsu ứng
nghiệm vai trò của Môsê hoặc ‘vị ngôn sứ giống như Môsê’ đã hứa (Đnl 18,15.18)
lên đến đỉnh điểm tại thập tự giá. Đức Giêsu cũng chết vào giờ giết những con
chiên Vượt qua; thực hiện quy tắc giết chiên Vượt Qua, chân của Người không bị
gãy; và ông uống rượu giấm từ cây hương bài được dâng cho Người khi Người chết.
5.6
Sự trớ trêu của cơn khát của Đức Giêsu
Những sự trớ trêu
rõ ràng trong cảnh này cần được bình luận (cf. Moore 1993,207-27; idem 1994,43-64;
Witkamp 1996,489-510). Những mâu thuẫn khó có thể trớ trêu hơn hoặc mạnh mẽ hơn,
người cho nước hằng sống lại khát, sự thiếu hụt hoàn thành, việc trao rượu đi với
ác ý, và việc uống làm cơn khát trầm trọng hơn. Tương tự như vậy, có một dữ liệu
tham khảo về sự ứng nghiệm của Sách Thánh, nhưng câu văn không được trích dẫn. Sách
Thánh không có mặt mà vắng mặt trong sự ứng nghiệm của nó. Trái ngược với những
diễn giải gần đây do Werner Kelber và Stephen Moore đề xuất, khi Đức Giêsu nói
rằng Người khát, người đọc không tưởng tượng rằng người đã cung cấp nước hằng sống
sẽ không thể cung cấp nó. Ngược lại, người ta nắm bắt được sự trớ trêu cơ bản của
câu chuyện về cuộc khổ nạn, rằng sự sống chỉ đến qua cái chết, rằng Đức Giêsu
chỉ có thể ban nước sống cho người khác nếu chính Người khát (tức là chỉ khi
Người hoàn thành sứ mệnh của mình). Bối cảnh của câu chuyện gợi ý sự hoàn thành
hơn là sự thất vọng về lời đề nghị nước sống của Đức Giêsu:
(1) khi chết, Đức Giêsu tuyên bố công việc của Người đã hoàn thành (‘Mọi sự đã
hoàn tất’); (2) Người trút hơi thở cuối cùng, và sự mơ hồ hoặc chơi chữ cho thấy
rằng có nhiều điều đang được nói đến hơn là chỉ đơn giản là Người đã chết (trao
thần khí); và (3) khi cạnh sườn Người bị đâm thủng, nước và máu chảy ra từ Người
(tương đồng với Gioan 7,37-39). Bị đánh đập, chảy máu và kiệt sức, Đức Giêsu
không thể đáp ứng được những nhu cầu cơ bản nhất của mình. Bằng cách chịu đựng
cơn khát cuối cùng này, Đức Giêsu tuôn đổ nước sự sống sẽ trở thành một nguồn
nước trào lên sự sống vĩnh cửu (4,14). Câu thơ của nhà thơ Ben Jonson, ‘cơn
khát từ tâm hồn dâng lên xin một thức uống thiêng liêng’ (The Forest, ix: To Celia), mô tả cơn khát của Đức Giêsu cũng
như cơn khát của những người tìm kiếm nước sống từ Người.
5.7
Trao ban Thần Khí
Lời tường thuật của
người thuật chuyện rằng Đức Giêsu cúi đầu và ‘trao ban Thần Khí’ (19,30) cộng hưởng với lời bình luận của người thuật chuyện trong Gioan 7,39
rằng Thần Khí vẫn chưa được ban cho vì Đức Giêsu vẫn chưa được tôn vinh. Trong
bài diễn văn từ biệt, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ của mình rằng tốt hơn cho
họ là Người ra đi vì khi Người ra đi, Người sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến ở cùng họ
(16,7). Do đó, người đọc đã được chuẩn bị để hiểu rằng khi Đức Giêsu chết, Thần
Khí sẽ đến từ Đức Giêsu và Chúa Cha để hướng dẫn cộng đoàn các môn đệ sau khi Đức
Giêsu chết. Tác giả đã đang tinh tế nhắc nhở người đọc về lời hứa này thông qua
cách ông kể lại cái chết của Đức Giêsu. Không cần phải giải thích thêm, chúng
ta có thể lưu ý một lần nữa rằng Tin Mừng của Gioan đã sử dụng các yếu tố truyền
thống của câu chuyện về cuộc khổ nạn - những lời cuối cùng của Đức Giêsu, việc
trao rượu giấm và cái chết của Đức Giêsu - và sử dụng chúng để hoàn thành các
chủ đề quan trọng đã được phát triển trước đó trong Tin Mừng. Và một lần nữa
cái chết của Đức Giêsu đã được giải thích với sự nhấn mạnh vào ý nghĩa của nó đối
với cộng đoàn tín đồ, Bằng cái chết của mình, Đức Giêsu đã hoàn thành công việc
mà Chúa Cha đã giao cho Ngài làm; Ngài đã yêu thương những người của mình cho đến
cùng (Cf. 13,1); Ngài đã hoàn thành các lời Sách Thánh, đặc biệt là cơn khát của
người công chính khi Ngài chết và việc sử dụng cây hương bài trong cuộc Xuất
hành; Ngài cung cấp nước sự sống; và Ngài trao ban Thánh Linh mà Ngài đã hứa
khi Ngài chết. Do đó, thần học về thập tự giá của Gioan được phát triển một
cách khéo léo trong phương thức tường thuật của Tin Mừng. Bằng cách đọc lời tường
thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu, người ta có thể nắm bắt lại ý nghĩa
của nó và tiếp thu một cách chủ động những gì nó đã hoàn thành trong lịch sử.
6.
Ý NGHĨA GIÁO HỘI HỌC CỦA CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
Trong suốt phần
bình luận này về tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu, tôi đã gợi ý
rằng Gioan liên tục phát triển các yếu tố của truyền thống theo những cách tỏ lộ
ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu. Khi giới thiệu mỗi cảnh trong bốn cảnh này
trên cây thánh giá, chúng ta đã lưu ý rằng Gioan đã lấy một yếu tố từ truyền thống
và phát triển nó theo cách riêng biệt của mình. Hơn nữa, mỗi cảnh này đều có ý
nghĩa đối với sự hình thành của Giáo Hội. Bây giờ chúng ta có thể tập hợp các mô
thức giáo hội mà chúng ta đã ghi chú trên suốt hành trình.
Bằng cách phát
triển các yếu tố truyền thống cụ thể này, Gioan đã nhiều lần nhấn mạnh ý nghĩa
của cái chết của Đức Giêsu đối với Giáo Hội. Dòng chữ tuyên bố lễ đăng quang của
Đức Giêsu là ‘Vua của người Do Thái’. Ba ngôn ngữ mà dòng chữ được viết báo hiệu
tính phổ quát của quyền tối cao của Đức Giêsu. Khi được nâng lên, Ngài sẽ thu
hút tất cả mọi người đến với mình. Cái chết của Ngài làm ứng nghiệm Sách Thánh.
Cụ thể hơn, thiết kế cho sứ mệnh cứu chuộc của Đức Giêsu, giống như thiết kế của
chiếc áo dài liền mạch, được dệt từ trên xuống. Đó là thiết kế của Chúa. Thực tế
là chiếc áo dài không bị rách phản ánh ý định của Chúa rằng cộng đoàn những người
tin Chúa phải là một. Ở một số khía cạnh, thần học về thập tự giá của Gioan có
mối quan hệ với các thần học sau này ‘Kristus Victor’. Nghịch lý thay, qua cái
chết của mình, Đức Giêsu đã chiến thắng quyền lực của cái ác, Ngài được tôn lên
làm vua, Ngài hoàn thành công việc mặc khải và cứu chuộc của mình, và Ngài thiết
lập cộng đoàn mới. Ở đây chúng ta có thể dừng lại để nhấn mạnh tính cấp tiến của
tầm nhìn của Gioan đối với cộng đoàn mới.
Công việc của Tin
Mừng không biết đến ranh giới quốc gia, và cuối cùng, nó phải đối mặt với cùng
một thách thức ở mọi nơi. Ngôn ngữ luôn đánh dấu bản sắc văn hóa, cho dù là tiếng
Hy Lạp, tiếng La-tinh và tiếng Do Thái; tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, hoặc tiếng
gần đây được gọi là Ebionics; tiếng Anh và tiếng Afrikaans, hoặc nhiều ngôn ngữ
và giọng khác nhau báo hiệu di sản văn hóa của chúng ta. Lời tường thuật của Gioan
về cái chết của Đức Giêsu nói trong cùng bối cảnh của ba ngôn ngữ và một chiếc
áo dài liền mạch, không rách. Một cộng đoàn mới được thành lập tại thập tự giá
bởi cái chết của Đức Giêsu. Đó là một gia đình mới, một người mẹ và một Môn đệ
Yêu dấu, và được trao quyền bởi Chúa Thánh Thần đã hứa. Giáo hội phải là một cộng
đoàn được đánh dấu bằng sự hiệp nhất, tình yêu và Chúa Thánh Thần, một cộng
đoàn với một vị vua mới, một vị vua bị đóng đinh. Đấng Mêsia bị đóng đinh khát,
và bằng cơn khát của mình, Người đồng nhất với tất cả những ai đang khát. Qua
cái chết của mình, Người ban sự sống. Theo cách này, cách diễn giải của Gioan về
truyền thống làm nổi bật các yếu tố có ý nghĩa về mặt giáo hội học, và cách diễn
giải lại truyền thống này phản ánh một sự hiểu biết thần học cơ bản, Giáo Hội
không chỉ được thành lập trên sự phục sinh của Đức Giêsu mà còn có nguồn gốc từ
thập giá. Do đó, những gì đã xảy ra trên thập giá định hình cho mọi thời đại bản
chất và thiết kế của Giáo Hội.
Trong bài viết
này, tôi đã cố gắng chứng minh rằng tác giả Tin Mừng thứ tư đã chọn những yếu tố
quan trọng từ truyền thống, rằng ông phát triển những yếu tố này trong câu chuyện
về cuộc khổ nạn như một phần không thể thiếu và thực sự là phần cao trào của
toàn bộ Tin Mừng, và rằng khi chúng ta đọc những cảnh này trong bối cảnh của
câu chuyện Tin Mừng, chúng ta thấy rằng Gioan thực sự có một thần học mạch lạc
về thập tự giá, và cụ thể hơn là một giáo hội học về thập tự giá dự kiến một
thiết kế đầy thách thức cho Giáo hội. Do đó, tôi xin đưa ra năm kết luận sau,
1. Bất chấp tất cả những điểm khác biệt so với
các Tin Mừng khác, Gioan đã rút ra từ truyền thống về cái chết của Đức Giêsu
bao gồm nhiều yếu tố giống như chúng ta tìm thấy trong các Tin Mừng nhất lãm.
Tuy nhiên, Gioan dường như không rút ra bất cứ điểm nào, trực tiếp từ các Tin Mừng
nhất lãm.
2. Tác Giả Tin Mừng thứ tư đã chọn và phát
triển một số yếu tố nhất định từ truyền thống theo cách riêng của mình và cho mục
đích riêng của mình. Cách Gioan xử lý truyền thống và sự phát triển của bốn cảnh
này xung quanh các chủ đề của Gioan minh họa cách Gioan đã xây dựng một cách giải
thích tường thuật về cái chết của Đức Giêsu. Câu chuyện hiện nay vừa là ẩn dụ
cho ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu vừa là phương thức để lôi kéo độc giả của Gioan
vào ẩn dụ đó.
3. Những điểm nhấn đặc biệt của câu chuyện về
cuộc khổ nạn của Gioan được thể hiện rõ khi chúng ta theo dõi sự phát triển của
các chủ đề của Gioan đạt đến đỉnh điểm trong câu chuyện về cuộc khổ nạn. Trái
ngược với khẳng định của Kasemann, lời kể của Gioan về cái chết của Đức Giêsu
thực sự ‘phù hợp một cách hữu cơ với tác phẩm của ông’ (1968,7)
4. Lời tường thuật của Gioan về cái chết của
Đức Giêsu làm nổi bật ý nghĩa của nó đối với Giáo Hội, truy tìm nguồn gốc của cộng đoàn mới đến thập tự giá: một mối quan hệ họ hàng mới vượt qua những khác
biệt về ngôn ngữ, dưới quyền tối cao của Đức Giêsu, không bị chia rẽ bởi sự ly
giáo, và được duy trì bởi ‘nước sự sống’ và Thần Khí được
cấu thành ở đây. Lời tường thuật của Gioan về cái chết của Đức Giêsu phản ánh một
hiểu biết thần học quan trọng: rằng Giáo Hội có nguồn gốc từ thập tự giá (không chỉ ở
ngôi mộ trống), và do đó, những gì đã xảy ra trên thập tự giá cho thấy kế hoạch
của Chúa dành cho Giáo Hội và sẽ mãi mãi xác định sứ mệnh và cuộc sống của Giáo
Hội.
Tóm lại, có thể
không lạc lõng khi lưu ý rằng không thể thay thế cho các học giả thú nhận giải
thích các văn bản Kinh Thánh trong bối cảnh của Giáo Hội và cho Giáo Hội. Chức
năng của văn bản Kinh Thánh là bảo tồn và liên tục tái hiện những câu chuyện nền
tảng về các hành động cứu chuộc của Chúa trong lịch sử, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô
và tầm nhìn sáng lập của Giáo Hội. Lời kêu gọi của những người giải thích Kinh Thánh
là thăm dò những sắc thái của bản văn và đọc những câu chuyện của nó một cách
nhạy bén trong bối cảnh luôn thay đổi của chúng ta. Lời kêu gọi của Giáo Hội là
trung thành với những câu chuyện Kinh Thánh, rao giảng Tin Mừng của họ và thách
thức cộng đoàn đại diện cho mục đích cứu chuộc của Chúa ngày càng trọn vẹn hơn
giữa chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy khích lệ lẫn nhau trong nhiệm vụ này.
Jos. Phạm Duy Thạch, SVD
[Chuyển ngữ từ “The theology of the Johannine passion
narrative: John 19:16b-30” của tác giả R. Alan Culpepper, trong NEOTESTAMENTICA
31(1) 1997.]
WORKS CONSULTED
Ashton, J., 1991.
Understanding the Fourth Gospel. Oxford, Clarendon.
Brawley, R.L.,
1993. An absent complement and intertextuality in Gioan 19,28-29. JBL 112,
427--43.
Brown, R.E. 1994.
The death of the Mêsiah. 2 vols. New York, Doubleday.
Culpepper, R.A.,
1996. Reading Gioan irony, in Culpepper, R A & Black, CC (eds), Exploring
the Gospel of Gioan, In honor of D. Moody Smith, 199-205. Louisville, Westminster/Gioan
Knox.
De Boer, M.C.,
1996. Gioan perspectives on the death of Giêsu. Kampen, Kok Pharos.
Kasemann, E.,
1968. The testament of Giêsu. Philadelphia, Fortress.
Moore, S.D.,
1993. Are there impurities in the living water that the Gioan Giêsu dispenses? Deconstruction,
feminism, and the Samaritan woman. Biblical Interpretation 1,207-27.
Moore, S.D.,
1994. Poststructuralism and the New Testament, Derrida and Foucault at the foot
of the cross. Minneapolis, Fortress.
Smith, D.M.,
1995. The theology of the Gospel of Gioan. Cambridge, Cambridge University
Press.
Witkamp, L.T.,
1996. Giêsu’ thirst in Gioan 19,28-30, Literal or figurative? JBL 115,489-510.
Professor R.A.,
Culpepper. Dean. McAfee School of Theology. Mercer University. 3001 Mercer
University Drive. Atlanta. GA 30341-4415. USA. Guest Lecturer. Department of
New Testament. Unisa. POBox 392. Pretoria. 0003 South Africa.