Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều nói đến “Tội phạm thượng, chống lại Thánh Thần”. Trong đó lời tường thuật của Luca xem ra độc lập và ngắn gọn nhất: “Lc 12,10: ‘Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.”
Thánh Matthêu nhấn
mạnh thêm đến tính “vĩnh viễn” của tội này: Mátthêu 12,32: “Ai nói phạm đến Con
Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời
này lẫn đời sau”.
Thánh Máccô nói
chi tiết nhất và rõ ràng hơn cả: Máccô 3,28-30: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của
con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy
đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời
nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. Đó là vì họ đã nói “ông ấy bị thần ô uế
ám”.
Vậy tội phạm thượng
chống lại Thánh Thần là tội gì mà mãi muôn đời lại không được tha như thế? Phải
chăng Thiên Chúa nhân từ vô cùng lại giữ lại một tội nào mà không tha cho người
ta? Đức Giêsu đã dạy Phêrô là phải “tha đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22), nghĩa
là tha hết, tha mãi. Vậy, sao có tội nào mà Người không thể tha?
Thánh Máccô xem chừng đã lý giải tội phạm đến Thánh Thần là tội nào khi ngài đưa ra lý do: “Đó là vì họ đã nói ‘ông ấy bị thần ô uế ám.’ (3,30). Nghĩa là vì “các kinh sư từ Giêrusalem xuống nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ” (Mc 3,22), nên Đức Giêsu mới tuyên bố về “tội phạm thượng chống lại Thánh Thần”. Làm thế nào mà nói rằng: Đức Giêsu bị “quỷ Bêendêbun ám và dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”, lại là “tội phạm thượng chống lại Thánh Thần”. Tác giả Máccô cũng đưa ra lý do tại sao Đức Giêsu nói là “phạm thượng chống lại Thánh Thần”: “Đó là vì họ nói Người bị quỷ thần ô uế nhập” (3,30). Nghĩa là, họ từ chối chính các công trình cứu độ của Đức Giêsu qua việc trừ quỷ. Vì họ cho đó là công việc của quỷ, nên họ không thể nhìn nhận và đón nhận được hiệu quả của công trình đó [X. R. A. Guelich, (WBC; Dallas 2002)180].
Tin Mừng thứ tư sẽ
soi sáng thêm cho chúng ta về sự nối kết giữa Đức Giêsu và Thánh Thần. Trong
đó, Đức Giêsu đã từng mạc khải: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Người cũng mạc khải “Thánh
Thần là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga
15,26).
Thần Khí sự thật
này sẽ “dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13), cho nên chối bỏ Thánh Thần,
là chối bỏ cơ may đón nhận chân lý và sẽ sống trong sự giả dối. Thần Khí Sự Thật
mà Thần Khí sự thật sẽ “không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người
nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga
16,13).
Thánh Thần được mệnh
danh là thần chân lý, để làm chứng về Đức Giêsu là chân lý và dẫn dẫn dắt con
người đến sự thật toàn vẹn. Phạm thượng chống lại Thánh Thần là thái độ đóng
kín lòng mình, không cho Thánh Thần có cơ hội nói lời chân lý trong mình.
Như thế, khía cạnh đầu tiên của tội phạm thượng
chống lại Thánh Thần là sự từ chối sự hướng dẫn của Thánh Thần, tiếng nói dẫn dắt
tội nhân về đường sám hối và đường ngay nẻo chính.
Nếu như họ xúc phạm,
chống lại Đức Giêsu nhân loại (Đức Giêsu trong thân phận con người) thì họ còn
có cơ may hoán cải khi họ đón nhận Đức Giêsu Thiên Chúa. Còn khi họ chối bỏ
chính công việc của Thiên Chúa, cố tình hiểu theo một chiều hướng tiêu cực, thì
vô phương chữa chạy.
Thiên Chúa vẫn
luôn luôn vui mừng “vì một một người tội lỗi sám hối ăn năn”. Người vẫn luôn
mong mỏi và tha thiết gọi mời người tội lỗi. Thế nhưng, một khi người tội lỗi
đóng kín cửa lòng thì Người cũng bó tay.
Khía cạnh thứ hai của tội phạm thượng chống lại Thánh Thần là sự
tuyệt vọng, thiếu niềm tin vào ơn tha thứ của của. Con người này cảm thấy tội lỗi
mình quá nặng đến nỗi không thể lãnh nhận ơn tha thứ, không thể đón nhận ơn tha
thứ, không dám tin rằng Chúa có thể tha thứ cho mình. Giáo hội vẫn không dám khẳng
định số phận của Tông Đồ Giuđa, bởi chỉ có Chúa mơi biết Giuđa có được hưởng phúc đời đời hay không. Thế nhưng, kiểu
xử lý, kết liễu đời mình của Giuđa là biểu lộ một sự tuyệt vọng không lối
thoát, chậm tin vào tình thương hãi hà của Chúa, khác với thái độ của Phêrô là
thái độ nhìn nhận thân phân tội lỗi và tín thác vào tình thương của Chúa.
Khía cạnh thứ ba của tội phạm thượng chống lại Thánh Thần có thể
là sự “bất cần ơn tha thứ”. Chúa có nói Ta tha thứ cho ngươi đó, hãy đón nhận
ơn tha thứ đi. Tội nhân sẽ trả lời rằng: “Tôi có cần ơn tha thứ của Người đâu”. Kiểu như thái độ của những người Kinh Sư đã công bố Đức Giêsu bị
quỷ nhập. Họ không đón nhận chính Đức Giêsu là nguồn mọi ơn và ơn tha thứ.
Sự bất cần ơn tha thứ có thể diễn ra nơi một con người cao ngạo, không
bao giờ thấy mình có lỗi lầm gì cả. Tôi có lỗi gì đâu mà cần hoán cải, cần ơn
tha thứ.
Thánh Tôma Aquinô
lý giải rằng “tội này không thể tha vì trong bản chất của nó, trong chừng mức
nó loại trừ các yếu tố mà qua đó, ơn tha thứ có thể xảy ra”. Sự tha thứ “bảy
mươi lần bảy” (Mt 18,22) mà Đức Giêsu muốn Phêrô làm sẽ diễn ra với một điều kiện
duy nhất là: “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại
nói với anh : ‘Tôi hối hận’, thì anh cũng phải tha cho nó” (Lc 17,4).
“Hối hận” chính
là điều kiện để ơn tha thứ có thể diễn ra. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
lý giải như sau: “Nếu Đức Giêsu nói rằng phạm thượng chống lại Thánh Thần không
thể được tha thứ trong thời của Người hay trong thời kế tiếp, đó là bởi vì “sự
không tha thứ này” được liên kết, với
nguyên nhân của nó, với “sự không ăn năn”, nói cách khác với sự chối bỏ triệt để
hoán cải. Điều này có nghĩa là sự chối từ đến với những nguồn ơn cứu độ vẫn
“luôn luôn” mở rộng trong nhiệm cục cứu độ trong đó sứ vụ của Thánh Thần được
hoàn tất (Dominum et vivificantem, số 46). Như thế, một tội nhân cứng lòng,
không hối cải cũng là một cách thức “phạm thượng chống lại Thánh Thần”
Sự bất cần ơn tha thứ cũng diễn ra khi người ta lợi dụng lòng thương
xót của Chúa. Chúa nhân từ, hay thương xót, chậm bất bình và giàu tình thương.
Vậy ta còn sợ gì, cứ sống thoải mái, cứ sống theo đam mê tội lỗi của mình. Rồi
Chúa lại tha thứ thôi. Liệu một con người không thiện chí như thế, một con người
cố tình sống chai lỳ trong tội như thế? Một con người đến với Chúa với một sự
toan tính, mưu mô, lợi dụng như thế có thể đón nhận được trọn vẹn hồng ân tha
thứ từ Thiên Chúa hay chăng?
Sự bất cần ơn tha thứ cũng có thể đến từ một tâm hồn chai lỳ trong tội
lỗi đến độ xem tội lỗi như một điều bình thường vô thưởng vô phạt.
Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã nhắc lại và nhấn mạnh lời Đức Piô XII về “tội thế kỷ” trong
thông điệp “Dominum et vivificantem”. Đó
là: “Thiếu cảm giác về tội”. Có nghĩa là dù người ta có phạm tội tày trời người
ta vẫn không thấy mình có tội gì cả. Ví dụ như, một người mẹ phá thai, tức là
giết chết đứa con máu thịt của mình. Thế nhưng, vì thiếu cảm giác về tội lỗi,
người mẹ ấy vẫn cảm thấy đó là điều hết sức bình thường, giống như là “hút điều
hòa”, vậy thôi.
Đó là một tình trạng
rất nguy hiểm đến sự sống đời đời của con người. Nó giống như một người không
có cảm xúc về đau đớn. Người ta không thể tưởng tượng được nếu như con người ta
không có cảm xúc đau đớn. Khi ấy, nếu người ta bị vết thương, người ta sẽ không
biết, và máu sẽ chảy cho đến chết. Cho nên, căn bệnh nội khoa nào mà ít có triệu
chứng đau đớn thường dễ dẫn đến tử vong nhất, bởi người ta khó nhận biết để điều
trị kịp thời.
Mất cảm giác về tội,
làm cho người ta sống chung với tội, lầy lội trong tội nhưng lại không nhận biết
tình trạng tồi tệ của mình. Giống như hình ảnh của người bị đổ nước mắm vào
mình nhưng lại chẳng cảm thấy hôi hám gì cả, thậm chí còn thấy thơm nữa. Thế
thì, làm sao đón nhận ơn tha thứ? Đó là tình trạng nguy hiểm nhất của tội nhân.
Như vậy, tội phạm
thượng chống lại Thánh Thần, không phải là xúc phạm, chống lại ngôi vị Thánh Thần,
cho bằng thái độ đóng kính trước lượng từ bi hải hà của Chúa, thái độ từ chối hồng
ân tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ hết mọi lỗi lầm nhưng tội nhân loại này lại
không đón nhận được ơn tha thứ đó. Không đón nhận được vì người ấy không muốn
hoặc không đủ điều kiện đón nhận. Có nhiều khía cạnh cản trở việc đón nhận ơn
tha thứ này: Từ chối sự hướng dẫn của Thần Khí sự thật; từ chối tiến trình hoán
cải; từ chối đón nhận chính sự tha thứ; “vô cảm” trước sự xấu xa của tội lỗi. Hồng
ân tha thứ luôn được mở ngỏ và tội nhân luôn được chào đón trở vế thế như vẫn
có đó những con người “vô cảm” không còn phân biệt được đâu là tội; biết có tội
nhưng cứng lòng không hoán cải; tội lỗi quá nặng không thể tin rằng mình có thể
được tha thứ; biết mình có tội nhưng bất cần dửng dưng trước ơn tha thứ của
Chúa. Theo cách giải thích của Máccô: “Vì họ nói
Người bị quỷ thần ô uế nhập”, thì phạm thượng chống lại Thánh Thần là từ chối
công việc cứu độ qua hành động trục xuất quỷ của Đức Giêsu. Họ gán công trình ấy
với công trình của quỷ thần, và như thế không nhìn nhận và không đón nhận được
hiệu quả của công trình ấy.
Giáo Hội luôn
luôn khẩn nài Thiên Chúa ân sủng làm cho tính toàn vẹn của lương tâm con người
không bị mất đi, ân sủng làm cho họ luôn cảm giác khỏe khoắn, không bị cùn khi
xem xét điều tốt và xấu. Sự toàn vẹn và cảm giác này được nối kết chặt chẽ với
hành động đích thực của Thánh Thần Chân Lý. Trong ánh sáng này các giáo huấn của
thánh Phaolô khẳng định cách hùng biện rằng: “Đừng dập tắt Thánh Thần” “Đừng
gây phiền Thánh Thần”. Nhưng trên hết Giáo Hội luôn luôn khẩn nài với sự tha
thiết nhất rằng sẽ không có sự gia tăng trong thế giới cái tội lỗi mà Thánh
Kinh gọi là “Phạm thượng chống lại Thánh Thần”...Giáo Hội cầu nguyện sao cho tội
nguy hiểm chống lại Thánh Thần vẫn trừa đường cho một sự sẵn sàng thánh để chấp
nhận sứ vụ của Người như là Đấng Bào Chữa, khi Người đến “thuyết phục thế giới
tội liên quan và sự công chính và việc xét xử” (Dominum et vivificantem, số
47).
Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD