Sunday, 9 June 2024

PHẠM THƯỢNG CHỐNG LẠI THÁNH THẦN

Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều nói đến “Tội phạm thượng, chống lại Thánh Thần”. Trong đó lời tường thuật của Luca xem ra độc lập và ngắn gọn nhất: “Lc 12,10:  ‘Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.”

Thánh Matthêu nhấn mạnh thêm đến tính “vĩnh viễn” của tội này: Mátthêu 12,32: “Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau”.

Thánh Máccô nói chi tiết nhất và rõ ràng hơn cả: Máccô 3,28-30: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. Đó là vì họ đã nói “ông ấy bị thần ô uế ám”.

Vậy tội phạm thượng chống lại Thánh Thần là tội gì mà mãi muôn đời lại không được tha như thế? Phải chăng Thiên Chúa nhân từ vô cùng lại giữ lại một tội nào mà không tha cho người ta? Đức Giêsu đã dạy Phêrô là phải “tha đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22), nghĩa là tha hết, tha mãi. Vậy, sao có tội nào mà Người không thể tha?

Thánh Máccô xem chừng đã lý giải tội phạm đến Thánh Thần là tội nào khi ngài đưa ra lý do: “Đó là vì họ đã nói ‘ông ấy bị thần ô uế ám.’ (3,30). Nghĩa là vì “các kinh sư từ Giêrusalem xuống nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ” (Mc 3,22), nên Đức Giêsu mới tuyên bố về “tội phạm thượng chống lại Thánh Thần”. Làm thế nào mà nói rằng: Đức Giêsu bị “quỷ Bêendêbun ám và dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ”, lại là “tội phạm thượng chống lại Thánh Thần”. Tác giả Máccô cũng đưa ra lý do tại sao Đức Giêsu nói là “phạm thượng chống lại Thánh Thần”: “Đó là vì họ nói Người bị quỷ thần ô uế nhập” (3,30). Nghĩa là, họ từ chối chính các công trình cứu độ của Đức Giêsu qua việc trừ quỷ. Vì họ cho đó là công việc của quỷ, nên họ không thể nhìn nhận và đón nhận được hiệu quả của công trình đó [X. R. A. Guelich, (WBC; Dallas 2002)180]. 

Tin Mừng thứ tư sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về sự nối kết giữa Đức Giêsu và Thánh Thần. Trong đó, Đức Giêsu đã từng mạc khải: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Người cũng mạc khải “Thánh Thần là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26).

Thần Khí sự thật này sẽ “dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13), cho nên chối bỏ Thánh Thần, là chối bỏ cơ may đón nhận chân lý và sẽ sống trong sự giả dối. Thần Khí Sự Thật mà Thần Khí sự thật sẽ “không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16,13).

Thánh Thần được mệnh danh là thần chân lý, để làm chứng về Đức Giêsu là chân lý và dẫn dẫn dắt con người đến sự thật toàn vẹn. Phạm thượng chống lại Thánh Thần là thái độ đóng kín lòng mình, không cho Thánh Thần có cơ hội nói lời chân lý trong mình.

Như thế, khía cạnh đầu tiên của tội phạm thượng chống lại Thánh Thần là sự từ chối sự hướng dẫn của Thánh Thần, tiếng nói dẫn dắt tội nhân về đường sám hối và đường ngay nẻo chính.

Nếu như họ xúc phạm, chống lại Đức Giêsu nhân loại (Đức Giêsu trong thân phận con người) thì họ còn có cơ may hoán cải khi họ đón nhận Đức Giêsu Thiên Chúa. Còn khi họ chối bỏ chính công việc của Thiên Chúa, cố tình hiểu theo một chiều hướng tiêu cực, thì vô phương chữa chạy.

Thiên Chúa vẫn luôn luôn vui mừng “vì một một người tội lỗi sám hối ăn năn”. Người vẫn luôn mong mỏi và tha thiết gọi mời người tội lỗi. Thế nhưng, một khi người tội lỗi đóng kín cửa lòng thì Người cũng bó tay.

Khía cạnh thứ hai của tội phạm thượng chống lại Thánh Thần là sự tuyệt vọng, thiếu niềm tin vào ơn tha thứ của của. Con người này cảm thấy tội lỗi mình quá nặng đến nỗi không thể lãnh nhận ơn tha thứ, không thể đón nhận ơn tha thứ, không dám tin rằng Chúa có thể tha thứ cho mình. Giáo hội vẫn không dám khẳng định số phận của Tông Đồ Giuđa, bởi ch có Chúa mơi biết Giuđa có được hưởng phúc đời đời hay không. Thế nhưng, kiểu xử lý, kết liễu đời mình của Giuđa là biểu lộ một sự tuyệt vọng không lối thoát, chậm tin vào tình thương hãi hà của Chúa, khác với thái độ của Phêrô là thái độ nhìn nhận thân phân tội lỗi và tín thác vào tình thương của Chúa.

Khía cạnh thứ ba của tội phạm thượng chống lại Thánh Thần có thể là sự “bất cần ơn tha thứ”. Chúa có nói Ta tha thứ cho ngươi đó, hãy đón nhận ơn tha thứ đi. Tội nhân sẽ trả lời rằng: “Tôi có cần ơn tha thứ của Người đâu”. Kiểu như thái độ của những người Kinh Sư đã công bố Đức Giêsu bị quỷ nhập. Họ không đón nhận chính Đức Giêsu là nguồn mọi ơn và ơn tha thứ.

Sự bất cần ơn tha thứ có thể diễn ra nơi một con người cao ngạo, không bao giờ thấy mình có lỗi lầm gì cả. Tôi có lỗi gì đâu mà cần hoán cải, cần ơn tha thứ.

Thánh Tôma Aquinô lý giải rằng “tội này không thể tha vì trong bản chất của nó, trong chừng mức nó loại trừ các yếu tố mà qua đó, ơn tha thứ có thể xảy ra”. Sự tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22) mà Đức Giêsu muốn Phêrô làm sẽ diễn ra với một điều kiện duy nhất là: “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh : ‘Tôi hối hận’, thì anh cũng phải tha cho nó (Lc 17,4).

“Hối hận” chính là điều kiện để ơn tha thứ có thể diễn ra. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lý giải như sau: “Nếu Đức Giêsu nói rằng phạm thượng chống lại Thánh Thần không thể được tha thứ trong thời của Người hay trong thời kế tiếp, đó là bởi vì “sự không tha thứ này” được liên kết,  với nguyên nhân của nó, với “sự không ăn năn”, nói cách khác với sự chối bỏ triệt để hoán cải. Điều này có nghĩa là sự chối từ đến với những nguồn ơn cứu độ vẫn “luôn luôn” mở rộng trong nhiệm cục cứu độ trong đó sứ vụ của Thánh Thần được hoàn tất (Dominum et vivificantem, số 46). Như thế, một tội nhân cứng lòng, không hối cải cũng là một cách thức “phạm thượng chống lại Thánh Thần”

Sự bất cần ơn tha thứ cũng diễn ra khi người ta lợi dụng lòng thương xót của Chúa. Chúa nhân từ, hay thương xót, chậm bất bình và giàu tình thương. Vậy ta còn sợ gì, cứ sống thoải mái, cứ sống theo đam mê tội lỗi của mình. Rồi Chúa lại tha thứ thôi. Liệu một con người không thiện chí như thế, một con người cố tình sống chai lỳ trong tội như thế? Một con người đến với Chúa với một sự toan tính, mưu mô, lợi dụng như thế có thể đón nhận được trọn vẹn hồng ân tha thứ từ Thiên Chúa hay chăng?

Sự bất cần ơn tha thứ cũng có thể đến từ một tâm hồn chai lỳ trong tội lỗi đến độ xem tội lỗi như một điều bình thường vô thưởng vô phạt.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc lại và nhấn mạnh lời Đức Piô XII về “tội thế kỷ” trong thông điệp  “Dominum et vivificantem”. Đó là: “Thiếu cảm giác về tội”. Có nghĩa là dù người ta có phạm tội tày trời người ta vẫn không thấy mình có tội gì cả. Ví dụ như, một người mẹ phá thai, tức là giết chết đứa con máu thịt của mình. Thế nhưng, vì thiếu cảm giác về tội lỗi, người mẹ ấy vẫn cảm thấy đó là điều hết sức bình thường, giống như là “hút điều hòa”, vậy thôi.

Đó là một tình trạng rất nguy hiểm đến sự sống đời đời của con người. Nó giống như một người không có cảm xúc về đau đớn. Người ta không thể tưởng tượng được nếu như con người ta không có cảm xúc đau đớn. Khi ấy, nếu người ta bị vết thương, người ta sẽ không biết, và máu sẽ chảy cho đến chết. Cho nên, căn bệnh nội khoa nào mà ít có triệu chứng đau đớn thường dễ dẫn đến tử vong nhất, bởi người ta khó nhận biết để điều trị kịp thời.

Mất cảm giác về tội, làm cho người ta sống chung với tội, lầy lội trong tội nhưng lại không nhận biết tình trạng tồi tệ của mình. Giống như hình ảnh của người bị đổ nước mắm vào mình nhưng lại chẳng cảm thấy hôi hám gì cả, thậm chí còn thấy thơm nữa. Thế thì, làm sao đón nhận ơn tha thứ? Đó là tình trạng nguy hiểm nhất của tội nhân.

Như vậy, tội phạm thượng chống lại Thánh Thần, không phải là xúc phạm, chống lại ngôi vị Thánh Thần, cho bằng thái độ đóng kính trước lượng từ bi hải hà của Chúa, thái độ từ chối hồng ân tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ hết mọi lỗi lầm nhưng tội nhân loại này lại không đón nhận được ơn tha thứ đó. Không đón nhận được vì người ấy không muốn hoặc không đủ điều kiện đón nhận. Có nhiều khía cạnh cản trở việc đón nhận ơn tha thứ này: Từ chối sự hướng dẫn của Thần Khí sự thật; từ chối tiến trình hoán cải; từ chối đón nhận chính sự tha thứ; “vô cảm” trước sự xấu xa của tội lỗi. Hồng ân tha thứ luôn được mở ngỏ và tội nhân luôn được chào đón trở vế thế như vẫn có đó những con người “vô cảm” không còn phân biệt được đâu là tội; biết có tội nhưng cứng lòng không hoán cải; tội lỗi quá nặng không thể tin rằng mình có thể được tha thứ; biết mình có tội nhưng bất cần dửng dưng trước ơn tha thứ của Chúa. Theo cách giải thích của Máccô: “Vì họ nói Người bị quỷ thần ô uế nhập”, thì phạm thượng chống lại Thánh Thần là từ chối công việc cứu độ qua hành động trục xuất quỷ của Đức Giêsu. Họ gán công trình ấy với công trình của quỷ thần, và như thế không nhìn nhận và không đón nhận được hiệu quả của công trình ấy.

Giáo Hội luôn luôn khẩn nài Thiên Chúa ân sủng làm cho tính toàn vẹn của lương tâm con người không bị mất đi, ân sủng làm cho họ luôn cảm giác khỏe khoắn, không bị cùn khi xem xét điều tốt và xấu. Sự toàn vẹn và cảm giác này được nối kết chặt chẽ với hành động đích thực của Thánh Thần Chân Lý. Trong ánh sáng này các giáo huấn của thánh Phaolô khẳng định cách hùng biện rằng: “Đừng dập tắt Thánh Thần” “Đừng gây phiền Thánh Thần”. Nhưng trên hết Giáo Hội luôn luôn khẩn nài với sự tha thiết nhất rằng sẽ không có sự gia tăng trong thế giới cái tội lỗi mà Thánh Kinh gọi là “Phạm thượng chống lại Thánh Thần”...Giáo Hội cầu nguyện sao cho tội nguy hiểm chống lại Thánh Thần vẫn trừa đường cho một sự sẵn sàng thánh để chấp nhận sứ vụ của Người như là Đấng Bào Chữa, khi Người đến “thuyết phục thế giới tội liên quan và sự công chính và việc xét xử” (Dominum et vivificantem, số 47).

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD

Thursday, 4 April 2024

GIẢI OAN CHO THÁNH THÔMA, Lm. Jos. Ph.D.Thạch SVD

LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI ῥήματα ζωῆς αἰωνίου: GIẢI OAN CHO THÁNH THÔMA, Lm. Jos. Ph.D.Thạch SVD: Trong bốn sách Tin Mừng, Tin Mừng Gioan nói nhiều nhất về ông Thôma Tông đồ. Tin Mừng Gioan nhắc đến Thôma trong 4 dịp quan trọng. Lần ...

Friday, 22 March 2024

RỬA CHÂN LÀ YÊU ĐẾN CÙNG. Chú Giải Ga 13,1-20, Lm. Jos. Ph.D.Thạch

Câu chuyện rửa chân Ga 13,1-20 là một đoạn văn điển hình của Thánh Gioan. Không giống như truyền thống nhất lãm, bao gồm trình thuật Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly, Thánh Gioan có truyền thống riêng với câu chuyện rửa chân theo những cách giải thích riêng. Đây là một trong những câu chuyện của Tin Mừng thứ tư luôn được đón nhận và tiếp tục nhận được sự quan tâm chú giải đáng kể của nhiều học giả với nhiều gợi ý để hiểu bản văn. Trong phần tiếp theo, tôi muốn đọc lại bản văn, so sánh nó với những cách giải thích của một số học giả khác, và đi đến những gợi ý của riêng tôi về cách hiểu bản văn. Để làm được điều này, trước hết tôi sẽ cố gắng xem xét giới hạn và bối cảnh của bản văn. Thứ hai, một cuộc thảo luận ngắn về cấu trúc và chuyển động của bản văn sẽ được đề cập. Thứ ba, tôi sẽ dành nhiều thời gian hơn cho việc phân tích bản văn dựa trên cấu trúc và các biện pháp trình thuật được sử dụng trong bản văn. Và cuối cùng, một số ý nghĩa thần học sẽ được rút ra nhờ việc phân tích bản văn.

I. Giới hạn và bối cảnh

1.1 Giới hạn

Ở đầu chương này, người viết sử dụng dấu hiệu thời gian để giới thiệu phần mới 13,1-20, “Πρὸ δὲ τῆς ἑορτῆς τοῦ πάσχα, trước Lễ Vượt Qua” (13,1). Mặc dù rõ ràng rằng v.1 là phần chuyển tiếp cho một phần mới, nhưng có vẻ như đó không phải là phần giới thiệu về việc rửa chân trong câu chuyện vv.4-20. R. Brown cho rằng giống như Lời mở đầu là phần giới thiệu toàn bộ Phúc âm và Sách các dấu hiệu nói riêng, câu 1 là phần giới thiệu Sách Vinh Quang. Vv. 2-3 là phần giới thiệu thực sự về việc rửa chân.[1]

Chúng ta có thể coi câu 20 là phần kết của câu chuyện rửa chân vì có sự chuyển tiếp rõ ràng về thời gian và chủ đề trong câu 21. Trên thực tế, đoạn văn sau đây bắt đầu bằng một cụm từ tạm thời giới thiệu một diễn ngôn mới, “Ταῦτα εἰπὼν [ὁ] Ἰησοῦς ἐταράχθη τῷ πνεύματι καὶ ἐμαρτύρησ εν καὶ εἶπεν”. Mệnh đề gián tiếp phân từ “Ταῦτα εἰπὼν” đóng vai trò là phần kết luận cho bài giảng của Đức Giêsu trong 13,1-20 và mệnh đề chính “Ἰησοῦς ἐταράχθη τῷ πνεύματι καὶ ἐμαρτύρησεν καὶ εἶπεν” mở ra một diễn ngôn mới. Nghĩa là câu này tách biệt rõ ràng 13,1-20 và phần sau.

Vì vậy, cùng với sự thống nhất về nội dung, việc rửa chân theo sau bởi hai cách giải thích khác nhau, 13,1-20 có thể được coi là một đơn vị thống nhất và độc lập, được mở đầu bằng trình thuật Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ và khép lại bằng trình thuật diễn ngôn về ý nghĩa hành động của Ngài.

1.2 Bối cảnh

Bối cảnh của Ga 13,1-20 có thể được thấy rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn lại phần đầu của chương 12. Có một số điểm tương đồng giữa 13,1-20 và 12,1-50. Thứ nhất, cả 12,1-50 và 13,1-20 đều bắt đầu bằng trạng ngữ chỉ thời gian và đề cập đến cùng một lễ, Lễ Vượt Qua, “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua” (12,1) ó “Trước ngày lễ Vượt Qua (13,1). Tường thuật “Rửa chân” được đưa vào trong các câu chuyện xảy ra ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua. Các chỉ dẫn về địa lý và niên đại rất rõ ràng, Đức Giêsu đến Giêrusalem lần cuối cùng (12,12-19) và Lễ Vượt Qua đã đến gần (11,55-57). Vì vậy, việc rửa chân diễn ra ở Giêrusalem trước lễ Vượt Qua.[2] Thứ hai, cả 12,1-50 và 13,1-20 đều bắt đầu bằng một trình thuật và kết thúc bằng các bài giảng của Đức Giêsu, trình thuật về việc xức dầu và lau chân cho Đức Giêsu (12,1-8) ó trình thuật về việc Đức Giêsu rửa và lau chân của các môn đệ (13,1-11) và bài giảng (12,44-50) ó bài giảng (13,12b-20). Thứ ba, cùng một phong cách được sử dụng trong 12,44-45, “Ai tin vào Thầy thì không phải tin vào Thầy mà tin vào Đấng đã sai Thầy và “ai nhìn thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi” được lặp lại trong 13,20, “Quả thật, tôi nói cho các bạn biết, ai đón tiếp người tôi sai đến là tiếp đón tôi; và ai tiếp đón tôi là tiếp đón Đấng đã sai tôi”. Và cuối cùng, cả hai bản văn đều miêu tả Giuđa theo cách tiêu cực, trong 12,6 Giuđa được ghi lại là “kẻ trộm” thường lấy những gì được cho vào túi tiền và hắn được mô tả là kẻ phản bội trong 13,11.

Ga 13,1-20 không chỉ kết nối tốt với bản văn trước nó mà còn liên kết với bản văn sau một cách tương ứng. 13,21 tiếp tục bài diễn văn với phong cách tương tự như 13,16.20, “tôi nói thật với anh em -ἀμὴν ἀμὴν λέγω ὑμῖν”. Ngoài ra, có vẻ như cả 13,1-20 và 13,21-30 đều xảy ra ở cùng một địa điểm (Phòng Tiệc Ly) vào cùng một thời điểm (giờ ăn tối) và với cùng các nhân vật (Đức Giêsu và các môn đệ). Ngoài ra, 13,26 còn tiết lộ rõ hơn danh tính của kẻ phản bội được đề cập trong 13,2.11.18.

Tóm lại, 13,1-20 được đặt trong bối cảnh của những câu chuyện nói về các hoạt động và giáo huấn của Đức Giêsu trong chuyến viếng thăm Giêrusalem lần thứ ba của Ngài. Trước khi được chào đón đến Giêrusalem với tư cách là vua, Ngài đã được xức dầu ở Bêthania (12,1-8). Sau đó, chính Ngài rửa chân cho các môn đệ (13,1-20). Cùng với hình ảnh đẹp đẽ Đức Giêsu được xức dầu làm dấu chỉ cho sự an táng (12,7) và khiêm nhường rửa chân cho các môn đệ (13,4-5), tác giả còn kể lại hình ảnh tiêu cực của Giuđa ngay từ đầu chương 12 cho đến khi danh tính của ông được Đức Giêsu tiết lộ (13,21-30).

II. Cấu trúc và chuyển động

2.1 Cấu trúc

A. 13,1-3 - Giờ của Đức Giêsu; Tình yêu đến cùng; Ý định phản bội của Giuđa

B. 13,4-5 - Việc rửa chân

C. 13,6-11 – Giải thích việc rửa chân bằng một cuộc đối thoại

D. 13,12-17 - Giải thích việc rửa chân bằng một bài giảng

E. 13, 18-20 - Sự phản bội như là sự hoàn tất của lời Kinh Thánh

Không giống như R. Brown[3] chia 13,1-20 thành ba phần, 1. V.1, Lời giới thiệu Sách Vinh Quang; 2. Cc. 2-11, việc rửa chân, được giải thích như biểu tượng về cái chết của Đức Giêsu với sự ám chỉ đến Bí tích Rửa tội; 3. Cc.12-20, một cách giải thích khác về việc rửa chân như một ví dụ về sự phục vụ khiêm tốn, tôi đề nghị chia đoạn văn này thành năm phần và mỗi phần là một tiểu đơn vị hoàn chỉnh. Phần đầu tiên, A. 13,1-3, là lời mở đầu giới thiệu thời gian thực: “Trước Lễ Vượt Qua” (13,1), trong bữa ăn tối (13,2) và thời gian ngụ ý: giờ của Đức Giêsu (13,1); Tình yêu của Đức Giêsu đến cùng (13,1); và Giuđa Iscariốt, kẻ nộp thầy (13,2). Phần thứ hai, B. 13,4-5, được đánh dấu bằng cấu trúc song song vi mô (A//A’) với hai câu có cấu trúc giống nhau, có ba động từ nối với nhau bằng “καὶ” và kết thúc bằng động từ “διαζώννυμι” ( “ἐγείρεται … καὶ τίθησιν … καὶ λαβὼν … διέζωσεν // βάλλει … καὶ ἤρξατο νίπτει ν … μαθητῶν καὶ ἐκμάσσειν … ἦν διεζωσμένος”). Phần thứ ba, C. 13,6-11, tách biệt phần trước và phần sau bằng cách thay đổi phong cách, một cuộc đối thoại trọn vẹn giữa Đức Giêsu và Simon Phêrô. Phần thứ tư, D. 13,12-17 có thể được nhận biết bằng cả sự thay đổi về phong cách, từ cuộc đối thoại đến bài diễn văn duy nhất của Đức Giêsu và bằng sự thay đổi về thời gian được đánh dấu bằng một mệnh đề thời gian, “Οτε οὖν ἔνιψεν τοὺς πόδας αὐτῶν [καὶ] ἔλαβεν τὰ ἱμάτια αὐτοῦ καὶ ἀνέπεσεν πάλιν”. Và phần cuối cùng, E. 13,18-20, là một đơn vị vi mô tách biệt rõ ràng được đánh dấu bằng sự thay đổi chủ đề, một tiết lộ về sự phản bội giống như sự ứng nghiệm của Kinh Thánh. Vì vậy, đây có thể là một cấu trúc hợp lý.

2.2 Chuyển động của bản văn

Chúng ta có thể thấy sự chuyển động của câu chuyện này theo ba khía cạnh khác nhau, trình tự thời gian, phong cách kể chuyện và chủ đề. Thứ nhất, câu chuyện chuyển từ thời điểm Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ (13,4-11) đến thời điểm Người giảng sau khi rửa chân xong và lại ngồi vào bàn (13,12-20). Thứ hai, chúng ta cũng có thể nhận thấy sự thay đổi trong cách kể chuyện của người kể chuyện. Ông bắt đầu bằng chính giọng của mình giới thiệu bối cảnh chung và việc rửa chân (13,1-5) và tiếp tục với cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Phêrô (13,6-11) và kết thúc bằng bài giảng của Đức Giêsu (13,12-20). Cuối cùng, chủ đề của các tiểu đơn vị chuyển từ hành động (hoặc dấu hiệu) sang diễn giải. Đầu tiên Đức Giêsu rửa chân (13,4-5), sau đó giải thích và dạy các môn đệ (13,6-20).

III. Phân Tích Ga 13,1-20

3.1 Dẫn nhập, Giờ của Đức Giêsu, tình yêu “đến cùng” (13,1-3)

Πρὸ δὲ τῆς ἑορτῆς τοῦ πάσχα εἰδὼς ὁ Ἰησοῦς ὅτι ἦλθεν αὐτοῦ ἡ ὥρα ἵνα μεταβῇ ἐκ τοῦ κόσμου τούτου πρὸς τὸν πατέρα, ἀγαπήσας τοὺς ἰδίους τοὺς ἐν τῷ κόσμῳ εἰς τέλος ἠγάπησεν αὐτούς.2 Καὶ δείπνου γινομένου, τοῦ διαβόλου ἤδη βεβληκότος εἰς τὴν καρδίαν ἵνα παραδοῖ αὐτὸν Ἰούδας Σίμωνος Ἰσκαριώτου,3  εἰδὼς ὅτι πάντα ἔδωκεν αὐτῷ ὁ πατὴρ εἰς τὰς χεῖρας καὶ ὅτι ἀπὸ θεοῦ ἐξῆλθεν καὶ πρὸς τὸν θεὸν ὑπάγει

Trong phần giới thiệu ngắn gọn này, nhờ khả năng toàn tri của người kể chuyện, chúng ta có thể biết được nhiều điều quan trọng liên quan đến Đức Giêsu và sứ mệnh của Người.

Giờ đã đến: Trước hết, chúng ta biết về sự hiểu biết của Đức Giêsu: “Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến” (c.1). Tính từ sở hữu (αὐτοῦ, của Người) đặt trước “giờ” (ὥρα) chỉ rõ giờ của Đức Giêsu, thuộc về Đức Giêsu hoặc liên quan đến Đức Giêsu chứ không phải thời gian nói chung. Có ít nhất ba lần khác chúng ta tìm thấy những cách nói tương tự trong Phúc Âm Thứ Tư (2,4; 7,30; 8,20). Trong khi ở 2,4, chính Đức Giêsu xác nhận rằng “giờ của tôi chưa đến”; và ở 7,30 và 8,20 người kể chuyện tiết lộ rằng “giờ của Ngài chưa đến”, ở 13,1 người kể chuyện thông báo rằng “giờ của Ngài đã đến”. “Giờ” đó phải ám chỉ một thời điểm quan trọng bao trùm toàn bộ sứ mệnh của Đức Giêsu. Nó có thể là một mệnh đề trạng ngữ chỉ mục đích phụ thuộc vào phân từ “biết”, nhưng có lẽ đó là mệnh đề thời gian bổ nghĩa cho danh từ “ὥρα” và “ἵνα” trong trường hợp này và mang ý nghĩa “khi nào” như Bennard khẳng định:[4] “giờ khi Đức Giêsu rời bỏ thế gian này để về với Chúa Cha”. Ngoài ra, Haenchen gọi đây là giờ quyết định, giờ chết của Ngài. Trên thực tế, cụm từ “rời bỏ thế giới” có thể có nghĩa là chết.[5]

Yêu thương những người thuộc về mình: Thứ hai, chúng ta có thể biết rằng Đức Giêsu “đã yêu thương những người thuộc về mình ở thế gian, thì yêu thương họ cho đến cùng”. Phân từ bất định “ἀγαπήσας” (đang yêu) có thể diễn đạt sự bắt đầu và tiến triển của tình yêu Đức Giêsu, một tình yêu không ngừng nghỉ. Cụm giới từ, “εἰς τέλος” (đến cùng) có thể củng cố sức mạnh, trường tồn của tình yêu Đức Giêsu dành cho người môn đệ của mình. Đó là tình yêu ở mức độ cao nhất cả về sức mạnh và sự bền bỉ. Từ điển B.D.F gọi nó là “mã thông báo tình yêu hoàn hảo”.[6]εἰς τέλος” cũng có thể được hiểu là một mức độ đầy đủ. Yêu là hy sinh mạng sống, và vì vậy yêu trọn vẹn có nghĩa là yêu cho đến cuối đời (x. 1 Ga 3,16). Cuối cùng, nơi cuộc đóng đinh, chúng ta sẽ thấy được sự mặc khải cuối cùng về tình yêu đó, nghĩa là mức độ trọn vẹn của nó.[7]

Đến cùng: Chắc chắn rằng “εἰς τέλος” có thể được hiểu theo nghĩa chất lượng (“hoàn hảo”, “hoàn toàn”), theo thời gian hoặc cả hai. Hành động chứng tỏ tình yêu của Ngài có thể là việc rửa chân hoặc cái chết đang đến gần của Đức Giêsu, khi đó Ngài kêu lên, “Mọi việc đã được trọn!” (19,30). Cách nói nghĩa kép đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết việc rửa chân với cái chết của Đức Giêsu và giải thích hành động của Đức Giêsu là đỉnh cao của tình yêu Ngài dành cho những người thuộc về mình.

Bật mí về sự trao nộp: Thứ ba, đối lập với “tình yêu đến cùng” của Đức Giêsu, tác giả còn tiết lộ cho độc giả biết rằng Giuđa sẽ nộp Đức Giêsu. Trong câu 2, cụm giới từ “εἰς τὴν καρδίαν” đặt ngay sau phân từ “βεβληκότος” (đã đặt, ném vào) và trước liên từ phụ thuộc “ἵνα” là không rõ ràng. Hầu hết các bản dịch đều kết nối nó với Giuđa (NAB, NAU, NJB). Tuy nhiên, tôi đồng ý với J. Moloney, người gợi ý rằng mệnh đề này nên đi với động phân từ và có thể được đọc là “để ý”, “quyết định” và áp dụng cho Satan, không phải Giuđa.[8] Brown cũng tuyên bố rằng có hai cách đọc cho cụm từ này, 1. Ma quỷ đã gieo vào lòng rằng (đinh ninh rằng) Giuđa sẽ phản bội Ngài; 2. Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa ý định phản bội Ngài.[9] Theo cả hai cách đọc, đối với tôi, dường như trong Phúc Âm Thứ Tư, chính Satan đã quyết định rằng Giuđa phải nộp Đức Giêsu. Không phải ngụ ý rằng Giuđa không chịu trách nhiệm về sự phản bội của mình, mà chỉ nói rằng vai trò và ý định của Satan rất rõ ràng trong cuộc chiến chống lại Đức Giêsu và Satan đã sử dụng Giuđa như một công cụ. Theo quan điểm của tác giả, hành động phản bội đó huyền bí đến mức không thể giải thích được nếu không có sự xúi giục của ma quỷ. [10]Việc đề cập đến kẻ phản bội ngay từ đầu có chức năng báo trước vì trong câu chuyện tiếp theo, chính Đức Giêsu sẽ tiết lộ tên và vai trò quyết định của ông ta (x. 13,21-30).[11]

3.2 Việc rửa chân (13,4-5)

 4  ἐγείρεται ἐκ τοῦ δείπνου καὶ τίθησιν τὰ ἱμάτια καὶ λαβὼν λέντιον διέζωσεν ἑαυτόν·5  εἶτα βάλλει ὕδωρ εἰς τὸν νιπτῆρα καὶ ἤρξατο νίπτειν τοὺς πόδας τῶν μαθητῶν καὶ ἐκμάσσειν τῷ λεντίῳ ᾧ ἦν διεζωσμένος. (Jn. 13:3-5 BGT)

Có thể nói một cách chắc chắn rằng việc “rửa chân” là hình ảnh căn bản bao hàm toàn bộ ý nghĩa của bản văn. Cách chúng ta hiểu nó sẽ ảnh hưởng chính yếu đến thông điệp bản văn. C. Thomas trong bài viết có tựa đề “Rửa chân trong Gioan 13 và cộng đoàn Gioan” đã đề xuất ít nhất bốn bối cảnh khác nhau để hiểu về ‘rửa chân’ trong Cựu Ước và đạo Do Thái thời sơ khai: Bối cảnh thờ phượng, bối cảnh gia đình để vệ sinh cá nhân và sự dễ chịu, bối cảnh trong nhà nhằm mục đích chiêu đãi, rửa thực phẩm và phục vụ.[12] Theo ông, việc rửa chân trong 13,1-20 có thể bao gồm những hàm ý sau đây. Thứ nhất, mô típ người hầu được Đức Giêsu khuếch đại đã ngầm giả định vai trò người hầu trong việc rửa chân cho các môn đệ. Thứ hai, động lực của việc rửa chân có thể được mô tả một cách rõ ràng là tình yêu khi nó xuất hiện ngay sau phần giới thiệu ở câu 1: “Ngài đã yêu thương họ đến cùng”. Thứ ba, việc rửa chân cũng có thể là một dấu hiệu của lòng hiếu khách thường xảy ra trong các bữa tiệc. Thứ tư, đó không chỉ là một hành vi hiếu khách mà còn để thanh tẩy các môn đệ và bảo đảm “meros” (phần tham gia) của họ với Đức Giêsu. Và cuối cùng, theo cách giải thích về việc chôn cất dựa trên việc rửa chân được mô tả trong 12,1-8, có thể hành động của Đức Giêsu được coi là có liên quan đến cái chết của ngài.[13] Brown tuyên bố: cc.14-17 cho thấy rõ ràng rằng những gì Đức Giêsu làm khi rửa chân cho các môn đệ là một ví dụ về lòng khiêm nhường hy sinh để họ noi gương.[14] Ông cũng nói rằng trong cc.2-11 việc rửa chân được trình bày như một hành động mang tính ngôn sứ, tượng trưng cho cái chết nhục nhã của Đức Giêsu để cứu rỗi người khác.[15] Câu trả lời của Đức Giêsu trong câu 8 ngụ ý rằng việc rửa chân là điều giúp các môn đệ có thể được sống đời đời với Đức Giêsu. Sự nhấn mạnh này có thể hiểu được nếu chúng ta hiểu việc rửa chân như một biểu tượng cho cái chết cứu độ của Đức Giêsu.[16]

Như đã đề cập ở trên, cảnh rửa chân được mô tả bằng một chuỗi hành động theo cấu trúc song song, có ba động từ nối với nhau bằng “κα” và kết thúc bằng động từ διαζώννυμι” (buc quanh) (“ἐγείρεται … καὶ τίθησιν … καὶ λαβὼν … διέζωσεν // βάλλει … καὶ ἤρξατο νίπτειν … καὶ ἐκμάσσειν … ἦν διεζωσμένος: Trỗi dậy … cởi áo … lấy khăn … buộc quanh eo // đổ nước …bắt đầu rửa … lau bằng khăn buộc quanh eo). Với phương tiện cú pháp này, người đọc có thể nhận ra việc rửa chân là một hành động được tổ chức chặt chẽ, hài hòa và hoàn hảo. Việc rửa chân chỉ được ghi lại trong hai câu văn nhưng đầy rẫy hành động (7 hành động): đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ngoài, lấy khăn, quấn khăn quanh eo, đổ nước vào chậu, rửa và lau. Sự ngắn gọn trong việc mô tả hành động không phải là điều bất thường trong Tin Mừng này, trong đó việc làm của Đức Giêsu được gọi là σημεία – dấu chỉ (2,11; 4,34) và một bài giảng diễn ra sau hành động đó để giải thích ý nghĩa của σημεία – dấu chỉ. Mô hình này tiếp tục trong ch. 13, trong đó, sau phần rửa chân, phần còn lại của chương chủ yếu là diễn ngôn và đối thoại thể hiện một cấu trúc song song ngược[17]. Tác giả nhấn mạnh ý nghĩa hành động của Đức Giêsu bằng cách đề cập cụ thể đến chiếc khăn, nước và chậu rửa. Sự nhấn mạnh này báo trước mô típ người hầu sẽ được làm rõ ở phần sau trong c.16. C. Thomas khẳng định rằng: “Không còn nghi ngờ gì nữa, việc rửa chân là việc của nô lệ”. Có quá nhiều sự nhận dạng về người hầu và việc rửa chân đến nỗi việc rửa chân có chức năng theo nghĩa bóng như một dấu hiệu của sự nô lệ.[18]

3.3 Giải thích việc rửa chân bằng đối thoại (13,6-11)

6 Ἔρχεται οὖν πρὸς Σίμωνα Πέτρον· λέγει αὐτῷ· κύριε, σύ μου νίπτεις τοὺς πόδας; 7  ἀπεκρίθη Ἰησοῦς καὶ εἶπεν αὐτῷ· ὃ ἐγὼ ποιῶ σὺ οὐκ οἶδας ἄρτι, γνώσῃ δὲ μετὰ ταῦτα.8  λέγει αὐτῷ Πέτρος· οὐ μὴ νίψῃς μου τοὺς πόδας εἰς τὸν αἰῶνα. ἀπεκρίθη Ἰησοῦς αὐτῷ· ἐὰν μὴ νίψω σε, οὐκ ἔχεις μέρος μετ᾽ ἐμοῦ. 9 λέγει αὐτῷ Σίμων Πέτρος· κύριε, μὴ τοὺς πόδας μου μόνον ἀλλὰ καὶ τὰς χεῖρας καὶ τὴν κεφαλήν.10 λέγει αὐτῷ ὁ Ἰησοῦς· ὁ λελουμένος οὐκ ἔχει χρείαν εἰ μὴ τοὺς πόδας νίψασθαι, ἀλλ᾽ ἔστιν καθαρὸς ὅλος· καὶ ὑμεῖς καθαροί ἐστε, ἀλλ᾽ οὐχὶ πάντες. 11 ᾔδει γὰρ τὸν παραδιδόντα αὐτόν· διὰ τοῦτο εἶπεν ὅτι οὐχὶ πάντες καθαροί ἐστε.

Có vẻ như hành động rửa chân của Đức Giêsu đã gây gương mù cho các môn đệ và đương nhiên Phêrô phản đối ngay việc Đức Giêsu rửa chân cho ông (c.6). Ngôn ngữ phản đối của ông được nhấn mạnh bằng cách đặt “Chúa” ở đầu và “chân” ở cuối (κύριε, σύ μου νίπτεις τοὺς πόδας), những điểm nhấn mạnh nhất của câu tiếng Hy Lạp. Nó nhấn mạnh sự phi lý đầy kịch tính của hành động.[19] Ông ta rất khó chấp nhận việc Đức Giêsu rửa chân cho mình. Và sự phản đối này, theo J. Moloney, cho thấy rằng sự hiểu biết của ông về hành động này không khớp với động cơ thực hiện chúng của Đức Giêsu. Thiếu sự cởi mở đối với sự mặc khải về đường lối của Thiên Chúa qua lời nói và việc làm của Đức Giêsu.[20]

Có thể nói rằng sự hiểu lầm và phản đối của Phêrô mở đường cho tất cả các môn đệ và độc giả có thể hiểu được động cơ của Đức Giêsu khi làm điều này. Nhưng không phải lúc này Đức Giêsu đang rửa chân (οὐκ οἶδας ἄρτι) mà họ sẽ hiểu “sau những điều này” (γνώσῃ δὲ μετὰ ταῦτα). “ταῦτα” ở số nhiều không thể ám chỉ sau khi rửa chân nhưng nó có thể là sau một loạt sự kiện. Do đó, Đức Giêsu có thể ám chỉ “thập giá, sự phục sinh và sự soi sáng ngày càng tăng của Chúa Thánh Thần để phát huy trọn vẹn ý nghĩa của chúng đối với tư tưởng và cuộc sống”.[21] Do đó, tính chất biểu tượng của việc rửa chân chỉ có thể được hiểu vào lúc Đức Giêsu được tôn vinh, chỉ khi đó các môn đệ mới có được Thánh Thần và chỉ khi đó ý nghĩa của biểu tượng mới trở nên rõ ràng.[22] Với câu nói của Đức Giêsu như vậy, người đọc có thể đoán được sẽ có điều gì đó xảy ra giữa “bây giờ” và “sau này” và họ có thể nghi ngờ rằng “giờ” Đức Giêsu yêu thương chính mình đến cùng sẽ là một phần của các biến cố xen vào. Sự nghi ngờ này được dẫn dắt bởi câu chuyện Đức Giêsu thanh tẩy Đền Thờ (2,13-22) và việc Người vào Giêrusalem (12,12-16). Trong những trường hợp đó, các môn đệ không hiểu lời nói và hành động của Đức Giêsu, nhưng sau khi Người sống lại từ cõi chết (2,22), sau khi Người được tôn vinh (12,16), họ đã nhớ, tin và hiểu.[23]

Việc Đức Giêsu “rửa chân” là điều kiện để “được dự phần” (có phần) với Đức Giêsu, “ἐὰν μὴ νίψω σε, οὐκ ἔχεις μέρος μετ᾽ ἐμοῦ” (c.8). Danh từ “meros” có nghĩa nhiều hơn là mối thông công vì “meros” được dùng trong LXX để dịch tiếng Do Thái ḥēleq, từ mô tả di sản do Chúa ban cho Israel. R. Brown nhấn mạnh rằng việc rửa chân là điều giúp các môn đệ có thể có được sự sống đời đời với Đức Giêsu. Sự nhấn mạnh này có thể hiểu được nếu chúng ta hiểu việc rửa chân như một biểu tượng cho cái chết cứu độ của Đức Giêsu.[24] J. Moloney gọi cách nói này là “sự ám chỉ ngầm đến việc thực hành lễ rửa tội của Kitô giáo”. Ông giải thích rằng mặc dù tác giả không quan tâm đến nghi thức nhưng quan tâm đến mối liên hệ giữa phép rửa và cái chết của Đức Giêsu (Rm 6,3). “Có phần với Đức Giêsu” qua việc rửa chân có nghĩa là trở thành một phần của tình yêu tự hiến sẽ kết thúc cuộc đời Đức Giêsu (cf.1)[25] và cũng được chi sẽ phần phúc phục sinh vinh quang với Ngài.

Một lần nữa trong trình thuật này, tác giả kêu gọi sự chú ý đến kẻ nộp thầy bằng cách diễn đạt điển hình: “kẻ nộp thầy” (13,10). Ngài đã nhắc đến tên ông trong câu 2. Trước câu chuyện này, ngài cũng dùng tước hiệu này để giải thích lời của Đức Giêsu, “Vì ngay từ đầu Đức Giêsu đã biết… ai sẽ nộp Ngài” (6,64). Tiêu đề này xuất hiện thêm ba lần nữa vào 18,2.5 (ὁ παραδιδοὺς αὐτὸν) và 21,20 (ὁ παραδιδούς). Và sau đó, Đức Giêsu cũng dùng động từ này để báo cho các môn đệ biết rằng “một trong các con sẽ nộp Thầy” (13,21). Danh hiệu này chỉ được dùng riêng cho Giuđa để mô tả hành động “giao nộp” Đức Giêsu của hắn.

3.4 Giải thích việc rửa chân bằng giảng (13,12-17)

12 Ὅτε οὖν ἔνιψεν τοὺς πόδας αὐτῶν [καὶ] ἔλαβεν τὰ ἱμάτια αὐτοῦ καὶ ἀνέπεσεν πάλιν, εἶπεν αὐτοῖς· γινώσκετε τί πεποίηκα ὑμῖν; 13 ὑμεῖς φωνεῖτέ με· ὁ διδάσκαλος, καί· ὁ κύριος, καὶ καλῶς λέγετε· εἰμὶ γάρ. 14 εἰ οὖν ἐγὼ ἔνιψα ὑμῶν τοὺς πόδας ὁ κύριος καὶ ὁ διδάσκαλος, καὶ ὑμεῖς ὀφείλετε ἀλλήλων νίπτειν τοὺς πόδας· 15 ὑπόδειγμα γὰρ ἔδωκα ὑμῖν ἵνα καθὼς ἐγὼ ἐποίησα ὑμῖν καὶ ὑμεῖς ποιῆτε. 16 ἀμὴν ἀμὴν λέγω ὑμῖν, οὐκ ἔστιν δοῦλος μείζων τοῦ κυρίου αὐτοῦ οὐδὲ ἀπόστολος μείζων τοῦ πέμψαντος αὐτόν. 17 εἰ ταῦτα οἴδατε, μακάριοί ἐστε ἐὰν ποιῆτε αὐτά.

Phần giải thích này bắt đầu bằng câu hỏi của Đức Giêsu, “các con có biết điều Thầy đã làm cho con không?” (Ga 13,12). Đây là câu hỏi tu từ vì Ngài không đợi câu trả lời mà trực tiếp tiếp tục bài diễn thuyết của mình. Câu hỏi tu từ này kèm theo lời giải thích về việc rửa chân có thể dẫn đến lập luận rằng liệu việc rửa chân sẽ chỉ được hiểu trong tương lai (c.7) hay có thể đã được hiểu (cc.12.17). Rõ ràng từ câu 7 là các môn đệ sẽ không thể hiểu được ý nghĩa đầy đủ của việc rửa chân cho đến sau này. Tuy nhiên, ngay sau đó, trong cc.12-20, các môn đệ được giải thích khá đầy đủ và rõ ràng về hành động đó. Như vậy, cc.12-20 đi ngược lại tình huống được phác họa trong câu cc. 6-l0a. Ngoài ra, trong khi vv. 6-l0a nói về việc rửa chân của Đức Giêsu như một hành động duy nhất (c. 8), cc.12-20 trình bày nó như một tấm gương để tất cả các môn đệ của Đức Giêsu noi theo và lặp lại (c.14-15). Do đó, một lần nữa, cc.12-20 mâu thuẫn trực tiếp với tình huống được giả định trong các câu trước đó.[26] Vì lý do này, tôi đồng ý với F. Segovia, người cho rằng đây là kết quả của cách tiếp cận biên tập lại và cách giải thích thứ hai đã được thêm vào sau đó.[27]

Không giống như cách giải thích đầu tiên, Đức Giêsu chỉ định rất rõ ràng rằng việc rửa chân là một ví dụ (ὑπόδειγμα) cho các môn đệ. Có vẻ như Đức Giêsu lặp lại danh hiệu “ὁ κύριος” mà Phêrô thường gọi Người trong câu 6 và câu 9 để nhắc lại sự hiểu lầm của Phêrô và làm rõ rằng Người vừa làm điều mà các môn đệ không thể hiểu và không thể chấp nhận được. Ông chủ tương phản với đầy tớ và thầy tương phản với môn đệ. Nếu ông chủ có thể rửa chân cho đầy tớ và thầy có thể rửa chân cho môn đệ thì không có lý do gì mà tôi tớ và môn đệ lại từ chối việc rửa chân cho nhau. Động từ ὀφείλω cùng với động từ nguyên thể (13,14) trong Tin Mừng thứ tư có nghĩa là “phải, bị bắt buộc, cần thiết”, vì thế, lời dạy này trở thành mệnh lệnh cấp bách của Đức Giêsu đối với toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu thực sự đã đảo ngược các luật lệ truyền thống được áp đặt không chỉ trong Do Thái giáo mà còn trong toàn xã hội. Tiêu chí mà người phụ trách một nhóm đương nhiên được phục vụ và tôn vinh đã bị đảo lộn hoàn toàn. Trong cộng đoàn Kitô hữu, người được coi là có thẩm quyền có nhiệm vụ chào đón và sẵn sàng phục vụ người khác.[28]

Do đó, việc rửa chân nổi lên như một biểu tượng của sự phục vụ khiêm tốn phải được tái hiện trong cách họ đối xử với nhau. Quả thực, kết luận ở câu 17, εἰ ταῦτα οἴδατε, μακάριοί ἐστε ἐὰν ποιῆτε αὐτά (nếu anh em biết những điều này, phúc cho an hem nếu thực hiện chúng) nêu rõ rằng chỉ khi bắt chước hành động này, các môn đệ mới có thể giữ được căn tính của mình. Không một môn đệ nào có thể trốn tránh nhiệm vụ này mà vẫn là một môn đệ.[29] Y. Simoens[30] nhấn mạnh tính bắt buộc của bài học “rửa chân” khi ông nhấn mạnh đến hai tước hiệu (thầy, Chúa) được sử dụng thường xuyên trong Phúc âm thứ tư như những tước hiệu Kitô học. Những danh hiệu này mô tả Đức Giêsu theo thẩm quyền giảng dạy của Ngài. Chúng được xác nhận bởi Chúa Kitô, Đấng đã rút ra bài học về hành động của Người vì lợi ích của các môn đệ. Vì vậy, việc “rửa chân” không xóa bỏ quyền lực của ông mà trở thành sự thể hiện đầy đủ quyền lực đó. Lập luận được gọi theo cú pháp là “lớn đến nhỏ” trong câu 14 thể hiện rất rõ ràng và khéo léo sự áp dụng cần thiết của bài học này, nếu người có thẩm quyền cao hơn mà làm điều này thì lý do của những người tự coi mình thuộc về người đó phải đặt ra càng mạnh mẽ hơn biết bao để mang ra thực hành.

Câu “amen, amen, tôi nói cùng anh em” là một thủ thuật văn học rất điển hình trong Tin Mừng thứ tư. Đức Giêsu sử dụng cụm từ này ở đầu những lời tuyên bố của Ngài để nhấn mạnh những gì Ngài nói sau đó. Những câu nói “amen, amen” (13,16.20) ở đây chỉ là hai trong số 25 câu nói này được tìm thấy trong toàn bộ Phúc Âm Thứ Tư.[31] Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, từ “amen” cũng được Đức Giêsu và các nhân vật dụ ngôn sử dụng tổng cộng 50 lần (13 lần trong Mc; 31 lần trong Mt; chỉ 6 lần trong Lc), nhưng chỉ trong Tin Mừng Thứ Tư, cách diễn đạt này luôn được sử dụng với nhân đôi câu “Amen, amen” để nhấn mạnh thêm. C. Thomas tuyên bố rằng công thức “amen, amen” biểu thị câu nói đặc biệt trang trọng xuất phát từ thẩm quyền của Đức Giêsu.[32] Trong trường hợp này, cách diễn đạt này có chức năng giới thiệu cho câu nói về mối quan hệ giữa tôi tớ và chủ nhân, giữa người được sai và người sai, một câu nói rất nổi tiếng trong truyền thống nhất lãm (Mt 24,34; Lc 6,40) . Có mối liên hệ giữa mối quan hệ trong xã hội với mối quan hệ tông đồ. Mối quan hệ chủ-tôi, như thường lệ trong thế giới cổ xưa, trở nên sáng tỏ khi biết rằng mối quan hệ tông đồ-sai đi là đặc điểm của mối quan hệ giữa Đức Giêsu và môn đệ của Ngài. “Kurios” (chúa) là thuật ngữ dùng cho Đức Giêsu như chúng ta đã thấy ở 13,6.9. Câu cách ngôn được giới thiệu bằng tiếng “amen” nhấn mạnh kép củng cố và nhấn mạnh sự cần thiết của việc rửa chân sẵn sàng dựa trên lời dạy của Đức Giêsu là Chúa và là Đấng sai các môn đệ của Người.[33]

Thật tuyệt vời biết bao khi Đức Giêsu kết thúc cách giải thích thứ hai về việc rửa chân bằng cách ban phước lành (13,7) cho những ai tuân theo mệnh lệnh của Người, noi gương Người và phục vụ người khác. Thuật ngữ “μακάριος”, được sử dụng rất thường xuyên trong truyền thống Nhất Lãm,[34] chỉ được ghi lại hai lần trong Tin Mừng thứ tư chỉ do Đức Giêsu nói ra. Ngoài lần này, khi kết thúc cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Thánh Tôma và Đức Giêsu sau khi Người sống lại, lời cuối cùng của Đấng Phục Sinh là “μακάριοι οἱ μὴ ἰδόντες καὶ πιστεύσαντες” (20,29). Đức Giêsu có ý ban mối phúc này cho những ai buộc phải tuân giữ mệnh lệnh rửa chân, mặc dù nó không những khó hiểu và khó chấp nhận mà còn khó thực hiện hơn nhiều. Tất nhiên, mối phúc này không chỉ là lời khuyến khích của Đức Giêsu về phần thưởng thực sự và quý giá dành cho những ai sẵn sàng phục vụ người khác trong cộng đoàn Kitô giáo.

3.5 Sự phản bội, “ego eimi”, và sự chào đón (13,18-20)

18 Οὐ περὶ πάντων ὑμῶν λέγω· ἐγὼ οἶδα τίνας ἐξελεξάμην· ἀλλ᾽ ἵνα ἡ γραφὴ ληρωθῇ· ὁ τρώγων μου τὸν ἄρτον ἐπῆρεν ἐπ᾽ ἐμὲ τὴν πτέρναν αὐτοῦ. 19 ἀπ᾽ ἄρτι λέγω ὑμῖν πρὸ τοῦ γενέσθαι, ἵνα πιστεύσητε ὅταν γένηται ὅτι ἐγώ εἰμι. 20 ἀμὴν ἀμὴν λέγω ὑμῖν, ὁ λαμβάνων ἄν τινα πέμψω ἐμὲ λαμβάνει, ὁ δὲ ἐμὲ λαμβάνων λαμβάνει τὸν πέμψαντά με.

 “Kẻ ăn bánh của tôi đã giơ gót chân chống lại tôi” (13,18), đây là lần thứ ba tác giả nhắc đến kẻ phản bội trong câu chuyện này. Nếu hai lần khác (13,2.10) tác giả ghi chú về kẻ phản bội, thì ở câu này chính Đức Giêsu mặc khải sự phản bội và coi đó là sự ứng nghiệm Kinh Thánh trong Thánh Vịnh 41,10. Đức Giêsu muốn nói gì? Y. Simoens[35] khẳng định rằng thuật ngữ “ăn bánh của tôi” (τρώγων μου τὸν ἄρτον) vang vọng đến chương 6, và đến trình thuật thánh thể, người nhận được bánh sự sống chính là người đã phản bội tình yêu vô hạn. Gioan gần như ra khỏi cách dùng từ “ăn” trong Bữa Tiệc Ly. Ông không nói ὁ ἐσθίων, mà là ὁ τρώγων, một từ ít thông dụng hơn mà ông sử dụng bốn lần (6,54.56.57.58) để chỉ việc “cho ăn” Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể (xem ghi chú ở 6,54).[36] Khi trích dẫn Tv 41,10, Chúa Kitô kết hợp việc tuyển chọn Giuđa vào nhiệm cục mc khải. Việc lựa chọn vị tông đồ xấu xa cho thấy rằng sự mặc khải xảy ra trong thế giới và trong lịch sử, rằng đức tin và tính có thể sai lầm gắn liền với nhau một cách bất khả phân ly.

Cùng với những câu nói kép “amen, amen”, “ἐγώ εἰμι: Ta là (13,19) cũng là một thủ pháp văn chương rất tiêu biểu trong Phúc Âm Thứ Tư. Tác giả Phúc âm thứ tư ghi lại 24 cách tuyệt đối sử dụng ἐγώ εἰμι của Đức Giêsu.[37] Không có vị ngữ trong những câu nói này. Có vẻ như đây là cách tốt nhất Đức Giêsu bộc lộ căn tính của mình. Ngài tiết lộ mình là “Tôi là”. Tương tự như cách Chúa tiết lộ tên của mình cho Môsê trong Ex 3,14 (יְהוָ֞ה). Đây là cách tốt nhất mà Thiên Chúa có thể trả lời cho Môsê khi ông hỏi danh Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng muốn Môsê nói “tên” đó cho dân Israel mặc dù có lẽ Môsê không hiểu ý nghĩa thực sự của nó. “Ego eimi” của Đức Giêsu chỉ có thể được hiểu ở đỉnh điểm của Cuộc Khổ Nạn của Người, “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết Ta là” (8,28). Và theo bối cảnh của 13,19, chúng ta có thể hiểu rằng chỉ sau cuộc Khổ nạn của Người, môn đệ của Người mới tin rằng “ego eimi”. Cách diễn đạt này quan trọng biết bao đối với Cuộc Khổ nạn của Đức Giêsu mà J. Moloney khẳng định rằng trung tâm của bài giảng là Đức Giêsu chỉ ra rằng toàn bộ quá trình dẫn đến sự tôn vinh đó, như được trình bày xuyên suốt Gioan 13, vừa là sự ứng nghiệm của Kinh Thánh vừa là sự mặc khải. của Đức Giêsu như Ta chính là Ngài (cc. 18b-19)”.[38]

“Ego eimi” trong bối cảnh này là đối tượng đức tin của các môn đệ. Tất cả những gì Đức Giêsu đã nói cho đến nay chỉ phục vụ một mục đích quan trọng, đó là niềm tin của người môn đệ rằng “chính Người” (ego eimi). Điều kiện, nền tảng để người môn đệ tin vào “ego eimi” là “khi điều đó xảy ra” (NJB). Điều gì được ngụ ý đằng sau cụm từ “khi nó xảy ra”? Brown không ngần ngại chỉ ra rằng đó là cuộc khổ nạn, cái chết, sự phục sinh và thăng thiên được quan niệm một cách tổng thể, sẽ dẫn các môn đệ đến một hành động tin tưởng trọn vẹn vào Đức Giêsu.[39] Và Y. Simoens cho rằng theo quan điểm của Thánh Gioan, Cuộc Khổ nạn và thập giá không phải là những thảm họa gây nguy hiểm cho đức tin của các môn đệ mà là để làm cho nó mạnh mẽ hơn và trở nên hoàn hảo. Đức tin của các môn đệ không bị lung lay cũng như danh tính của người mặc khải cũng không bị nguy hiểm. Ngược lại, trong cùng Cuộc Khổ Nạn, “ego eimi” của Đức Giêsu sẽ đạt đến ý nghĩa trọn vẹn của nó.[40]

Tác giả khép lại câu chuyện rửa chân bằng câu mở đầu bằng công thức trang trọng “Amen, Amen Ta nói với các con”: Ai tiếp đón người được Ta sai đến là tiếp đón Ta, ai tiếp đón Ta là tiếp đón Đấng đã sai Ta (13,20) để khẳng định ý nghĩa trước đây được gán cho dấu hiệu. Câu nói này nổi tiếng trong truyền thống nhất lãm (Mt 10,40; Mc 9,37; Lc 9,48), được xây dựng trên sự song hành kép, dựa trên một vài động từ, λαμβάνω/ πέμπω (nhận/gửi). S. Grass tin rằng hành động rửa chân có sức cộng hưởng mạnh mẽ hơn nhiều so với một cử chỉ nhân học và giáo hội đơn giản; nó là một hình ảnh và một sự ám chỉ đến một sự chào đón khác, liên quan đến Đức Giêsu (Ga 1,12; 5,43; 12,48) và Thiên Chúa, Đấng sai đến cả Đức Giêsu và các môn đệ. Cách giải thích này không có ý loại trừ cách giải thích truyền thống, coi việc rửa chân là một cử chỉ phục vụ. Thực ra, việc phục vụ đúng và đích thực duy nhất mà cộng đoàn môn đệ có thể đảm nhận là việc tiếp đón, chào đón người khác.[41]

IV. Một số kết luận thần học

Dựa trên sự phân tích mang tính chú giải, chúng ta có thể đi đến một số ý nghĩa thần học của bản văn này.

§   “Giờ của Đức Giêsu” đã đến. “Giờ của Đức Giêsu” là Kitô học điển hình của Gioan được ghi lại nhiều lần trong Tin Mừng này (2,4; 13,1; 7,30; 8,20). Đức Giêsu, trong bài diễn từ của mình đã nêu lên một số ý nghĩa của giờ đặc biệt này. Đó có thể là giờ “người chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa” (5,25); “ai ở trong mồ sẽ nghe tiếng người” (5,28); đó có thể là giờ “Con Người được tôn vinh” (12,23); đó cũng có thể là giờ mà các môn đệ “sẽ bị phân tán” (16,32). Giờ của Đức Giêsu trong 13,1 cũng được xác định là giờ Đức Giêsu rời bỏ thế gian để về với Chúa Cha. Có lẽ đó là hàm ý về giờ chịu khổ nạn và phục sinh của Người. Và giờ đó đã đến và có thể trong giờ này tất cả những gì Đức Giêsu mặc khải về giờ này sẽ xảy ra, Người sẽ được tôn vinh; kẻ chết sẽ nghe thấy giọng nói của Ngài; môn đệ sẽ bị phân tán.

§  “Đức Giêsu yêu thương những người thuộc về mình” và “yêu thương đến cùng”. Tác giả không chỉ mô tả việc Đức Giêsu yêu thương những người thuộc về mình mà còn nói rõ rằng Ngài yêu thương họ như thế nào. Đó là một tình yêu “εἰς τέλος”. “εἰς τέλος” có thể mang cả ý nghĩa thời gian và chất lượng. Vì vậy, nó có thể biểu thị sự hoàn hảo của tình yêu và một tình yêu bất tận. Cả hai ý nghĩa đều được hiện thực hóa qua cái chết bị đóng đinh của Đức Giêsu. Tình yêu “εἰς τέλος” của Đức Giêsu là tình yêu đẹp nhất từ trước đến nay (15,13). Việc đặt tình yêu “đến cùng” đối lại với ý định nộp thầy của Giuđa theo ý muốn của quỷ càng tô đậm tính chất “đến cùng” của tình yêu này.

§  Việc rửa chân là dấu hiệu đẹp nhất của tình yêu “εἰς τέλος”. Với lời giải thích của Đức Giêsu (13,7,8), chúng ta có thể hiểu Đức Giêsu ám chỉ cái chết và sự sống lại của Người trong hành vi rửa chân. Phêrô không thể hiểu được “bây giờ” nhưng “sau này” ông có thể hiểu được. Đức Giêsu tuyên bố rửa chân là điều kiện để Phêrô và các môn đệ “được dự phần” với Người. Nó có thể kể lại phép rửa mà nhờ đó các môn đệ có thể chia sẻ mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu, như Moloney đã đề cập ở trên.

§  Rửa chân là dấu hiệu của sự phục vụ khiêm nhường. Nếu trong cuộc đối thoại với Phêrô, Đức Giêsu dường như ám chỉ rằng sự hiểu lầm của Phêrô về việc rửa chân sẽ còn tồn tại cho đến “sau những việc này”, thì theo cách giải thích sau này, có lẽ được thêm vào sau, Đức Giêsu nêu rất rõ ý nghĩa của việc rửa chân. Khi rửa chân, Ngài muốn làm gương tốt cho các môn đệ. Khi khẳng định hai tước hiệu (Thầy và Chúa), một tước hiệu Phêrô vừa gọi trước đây và một tước hiệu mà các môn đệ thường gọi, Đức Giêsu nhấn mạnh đến trật tự nghịch lý trong việc phục vụ giữa người lãnh đạo và người hầu, chủ, chủ phải phục vụ môn đệ mình. và người hầu của họ. Và việc những người lãnh đạo cộng đoàn phải phục vụ các thành viên khác không chỉ là một lời khuyên mà có lẽ là một mệnh lệnh “ὑμεῖς ὀφείλετε ἀλλήλων νίπτειν: Anh em phải rửa (chân) cho nhau (13,14). Tuy nhiên, Đức Giêsu nói thêm, đó không phải là một mệnh lệnh đặt gánh nặng lên vai các môn đệ, nhưng đó là một món quà, một cơ hội tốt cho họ. Điều quan trọng là bất cứ khi nào họ biết điều đó và làm “phúc thay họ” (13,17). Tình yêu phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người khác cũng là tình yêu “đến cùng” mà các môn đệ phải bắt chước.

§  Việc xảy ra cuộc thương khó và phục sinh làm nền tảng cho người môn đệ tin vào căn tính của Đức Giêsu là “ego eimi”. Tin vào “Chúa Con” là đặc điểm quan trọng nhất trong Tin Mừng Gioan vì ai tin vào Người sẽ có được sự sống đời đời (3,15.16.36; 6,47). Vì vậy, sự mặc khải của Đức Giêsu cả trong cuộc đối thoại với Phêrô và trong bài giảng của Người thực sự quan trọng và những gì sẽ xảy ra (có thể là mầu nhiệm cuộc khổ nạn và phục sinh) như những gì Người nói lại càng quan trọng hơn vì nó sẽ là nền tảng cho niềm tin của các môn đệ vài Người là “ego eimi”. Đó là mục đích của toàn bộ mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh được Đức Giêsu mặc khải qua việc rửa chân và diễn từ của Người.

§  Từ việc tiếp nhận con người đến việc tiếp nhận Thiên Chúa. Việc rửa chân là dấu chỉ đón nhận Đấng Đức Giêsu sai đến, đón nhận chính Đức Giêsu và đón nhận Đấng sai Đức Giêsu. Như S. Grass đã nói rằng việc rửa chân không chỉ là một cử chỉ nhân học và giáo hội đơn giản, bởi vì bên cạnh việc tạo ra một trật tự phục vụ mới đẹp đẽ trong cộng đoàn Kitô giáo, nó còn đặc biệt giúp xây dựng mối quan hệ giữa những người thực hành việc đó với Đức Giêsu và người sai đi. Đức Giêsu.

§  Chiều kích giáo hội học của bản văn này. Hình ảnh rõ nét nhất mà chúng ta dễ dàng nhận ra trong cộng đoàn các môn đệ là hình ảnh kẻ phản bội. Ông được ghi lại ba lần (13,2,10,18). Chính Đức Giêsu xác nhận rằng Người biết những người Người đã chọn “nhưng để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm”. Bên cạnh đó, chúng ta cũng thừa nhận sự hiểu lầm và phủ nhận việc được rửa tội của Phêrô và các môn đệ khác dường như là không biết gì. Điều này có thể phản ánh sự hiểu biết thực tế của Gioan về Giáo hội. Dù được Đức Giêsu lựa chọn nhưng trong Giáo hội đó vẫn luôn có những phản bội, chối bỏ, hiểu lầm nhưng họ vẫn là môn đệ, vẫn là Giáo hội.[42]

§  Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu được thực hiện bởi các thượng tế và kỳ lão; Đức Giêsu bị môn đệ Giuđa trao nộp; đằng sau đó là ý định của quỷ, đối thủ của Đức Giêsu. Vụ án Giêsu có thể là âm mưu của quỷ và thế lực thù địch. Tuy nhiên, tất cả đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến. Đó là giờ Người rời bỏ thế gian mà đi về cùng Cha; Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người; Mạng sống của Người không ai lấy đi được nếu Ngài không tự ý dâng hiến. Tất cả đều cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn chủ động trong cuộc thương khó này. Người đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết như là hành trình để “yêu nhân loại đến cùng” và cứu độ họ khỏi sự chết do tội gây nên.

Phần kết luận

Ga 13,1-20 thực sự là một trong những bản văn Gioan hay nhất về cả cấu trúc lẫn thông điệp. Nó bắt đầu bằng phần giới thiệu về “giờ của Đức Giêsu”. Đó là giờ Đức Giêsu rời bỏ thế gian để về cùng Chúa Cha. Thời điểm Ngài bắt đầu cuộc hành trình đó cũng là lúc Ngài bắt đầu quá trình thể hiện rằng Ngài yêu thương “những người thuộc về mình còn ở thế gian” (c.1). Ngài yêu họ “εἰς τέλος”. Dẫu Giuđa có ý định nộp thầy theo ý muốn của quỷ thì Đức Giêsu cũng yêu ông đến cùng. Câu chuyện tiếp tục với việc rửa chân như một dấu chỉ tình yêu của Đức Giêsu “εἰς τέλος” (cv.4-5). Sau phần rửa chân là hai cách giải thích được đánh dấu bằng hai phương tiện tường thuật khác nhau. Mặc dù hai cách giải thích chuyển tải hai cấp độ ý nghĩa khác nhau nhưng chúng không tương phản với nhau mà hỗ trợ lẫn nhau và làm cho ý nghĩa của việc rửa chân trở nên đa dạng và đầy đủ hơn. Theo cách giải thích thứ nhất (cc.6-11), việc rửa chân được hiểu là dấu hiệu mầu nhiệm của cuộc khổ nạn và sự phục sinh và việc rửa chân là điều kiện để “được phần” với Đức Giêsu. Điều thứ hai (cc.12-17) nhấn mạnh sự cần thiết của việc đưa tấm gương phục vụ khiêm tốn như dấu hiệu yêu thương người khác “εἰς τέλος” vào thực tế. Ngoài ra, việc biết và làm gương đó không phải là một lựa chọn tùy ý mà là một mệnh lệnh “ngọt ngào” (c.14) mà ai làm theo sẽ nhận được phước lành (c.17). Tiếp theo hai cách giải thích là một mặc khải quan trọng, tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và giảng dạy cho đến nay là để người môn đệ nhận ra và tin Đức Giêsu là “Ego eimi” (c.19). Cuối cùng, toàn bộ quá trình từ việc thể hiện tình yêu “εἰς τέλος” như Đức Giêsu đã làm và thực hành tấm gương phục vụ khiêm tốn, đến việc tin vào Đức Giêsu là “ego eimi”, “được dự phần” với Đức Giêsu, chỉ nhằm mục đích cao nhất, để đến với Chúa và đón nhận Chúa (c.20), như đích đến cuối cùng và nguồn ơn cứu độ.

Lm. Jos. Phạm Duy Thạch, SVD

Bibliography

Commentaries

BEASLEY-MURRAY, G. R., John (WBC 36; Dallas 2002).

BERNARD, J. H., A Critical and Exegetical Commentary on the Gospel According to St. John (ed. H. McNeil) (ICC; New York 1929) I-II.

BROWN R. E., The Gospel According to John (XIII-XXI). Introduction, Translation, and Notes (AncB 29; Garden City 1979, London 2008).

GRASS, S., Il Vangelo di Giovanni. Commento Esegetico e Teologico (Roma 2008).

HAENCHEN, E., A Commentary on the Gospel of John (FUNK R. W., Trans. and ed.) (Hermeneia; Philadelphia 1984).

KEENER, C. S., The Gospel of John. A Commentary (Henrikson 2005).

MOLONEY, F. J. The Gospel of John (Harrington D.J., ed.) (SP 4; Minnesota 1998).

SIMOENS, Y., Selon Jean (IET 17; Bruxelles 1997) II.

WHITACRE, R. A., John (IVP NTC 4; Downers Grove 1999).

Monographs

THOMAS, J. C., Footwashing in John 13 and the Johannine Community (JSOTSup 61; Sheffield 1991).

Grammar

BLASS F., - DEBRUNNER A., - FUNK R. W., A Greek Grammar of the New Testament and Other Early Christian Literature (Chicago – London 1961).

Articles

COLOE, M. L., “Welcome into the Household of God, The Foot Washing in John 13”, CBQ 66/3 (2004) 400-415.

MOLONEY, F. J., “The Structure and Message of John 13,1-38”, ABR 34 (1986) 1-16.

SEGOVIA, F. F., “John 13,1-20, The Footwashing in the Johannine Tradition”, ZNW 73 (1982) 31-51.

 

 



[1] R. E. BROWN, The Gospel According to John (XIII-XXI). Introduction, Translation, and Notes (Garden 1970, London 2008) 560.

[2] F. F. SEGOVIA, “John 13:1-20, The Footwashing in the Johannine Tradition”, ZNW 73 (1982) 37

[3] R. E. BROWN, The Gospel According to John, 545.

[4] J. H. BERNARD, J. H., A Critical and Exegetical Commentary on the Gospel According to St. John (ed. H. McNeil) (ICC; New York 1929) I-II 455.

[5] E. HAENCHEN et al., John. A Commentary on the Gospel of John (Hermeneia; Philadelphia 1984), 104.

[6] F. BLASS - A. DEBRUNNER - R. W. FUNK, A Greek Grammar of the New Testament and Other Early Christian Literature (Chicago – London 1961) 112.

[7] R. A. WHITACRE, John (The IVP New Testament commentary; Downers Grove 1999) IV, 327.

[8] F. J. MOLONEY, The Gospel of John (Harrington D.J., ed.) (SP 4; Minnesota 1998) 378.

[9] R. E. BROWN, The Gospel According to John, 549.

[10] S. GRASS, Il Vangelo di Giovanni. Commento Esegetico e Teologico (Roma 2008) 546.

[11] S. GRASS, Il Vangelo di Giovanni, 540.

[12] J. C. THOMAS, Footwashing in john 13 and the Johannine Community (JSOTSup 61; Sheffield 1991) 26-46.

[13] J. C. THOMAS, “Footwashing”, 70-71.

[14] R. E. BROWN, The Gospel According to John, 558.

[15] R. E. BROWN, The Gospel According to John, 562.

[16] R. E. BROWN, The Gospel According to John, 566.

[17] M. L. COLOE, “Welcome into the Household of God: The Foot Washing in John 13”, CBQ 66/3 (2004) 400-415, 402.

[18] J. C. THOMAS, “Footwashing” 109.

[19] C. S. KEENER, The Gospel of John. A Commentary (Henrikson 2005) 908.

[20] F. J. MOLONEY, The Gospel of John, 374.

[21] G. R. BEASLEY-MURRAY, John (WBC 36; Dallas 2002) 233.

[22] F. F. SEGOVIA, “John 13:1-20”, 43.

[23] F. J. MOLONEY,The Gospel of John”, 375.

[24] R. E. BROWN, The Gospel According to John, 656.

[25] F. J. MOLONEY,The Gospel of John”, 375.

[26] F. F. SEGOVIA, “John 13:1-20”, 42.

[27] F. F. SEGOVIA, “John 13:1-20”, 34.

[28] S. GRASS, “Il Vangelo di Giovanni”, 553.

[29] F. F. SEGOVIA, “John 13:1-20”, 46.

[30] Y. SIMOENS, Selon Jean (Collection IET 17; Bruxelles 1997) II, 29.

[31] 1;51; 3:3,5,11; 5:19,24,25; 6:26,32,47,53; 8:34,51,58; 10:1,7; 12:24; 13:16,20,21,38;14:12; 16:20,23; 21:28.

[32] J. C. THOMAS, “Footwashing”, 142.

[33] S. GRASS, “Il Vangelo di Giovanni”, 554-5.

[34] Cf. Mt 5: 3-11; 11:6; 13:16; 16:17; 24:46; Lc 1:45; 6:20,21a,b,22; 7:23; 10:23; 11:27,28; 12:37,38,43; 14:14,15; 23:29.

[35] Y. SIMOENS, “Selon Jean, 32.

[36] J. H. BERNARD, A Critical and Exegetical Commentary, 267.

[37] Jn 4:26; 6:20; 6:35; 6:41; 6:48; 6:51; 8:12; 8:18; 8:23–24,28,58; 10:7; 10:9,11,14;11:25; 13:19;14:6; 15:1,5; 18:5,6,8.

[38] F. J. MOLONEY, “The Structure and Messages of John 13:1-38”, ABR 34 (1986) 1-16, 12.

[39] R. E. BROWN, The Gospel According to John, 554.

[40] Y. SIMOENS, “Selon Jean, 32.

[41] S. GRASS, “Il Vangelo di Giovanni”, 557.

[42] F. J. MOLONEY, “The Structure and Messages”, 13.